Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2008

Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa




Vừa qua tập san ĐA HIEU, cơ quan ngôn luận của Tổng Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam có trích đăng một bài từ báo Đất Mẹ có tựa đề là

"Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa".

Bài nầy chỉ là một đoạn ngắn trích từ bản dịch tóm lược của quyển "Sài Gòn et moi", mà tác giả là ông Jean Marie Mérillon, cựu đại sứ Pháp tại Sài Gòn năm 1975. Quyển sách nầy rất có giá trị về mặt lịch sử, từng được các báo Việt Nam tại Pháp đăng bản tóm lược vào thập niên 80. Chúng tôi xin tạm thời ghép bài nầy vào bản dịch "Việt Nam Cộng Hòa Bị Bức Tử ", phỏng dịch từ quyển "La Mort du Việt Nam" của đại tướng Vanuxem, như một phụ bản đặc biệt. Một vài đoạn cũng có liên quan đến tướng Vanuxem, nhưng quan trọng hơn đây là một đoạn hồi ký rất đặc biệt của một nhân chứng lịch sử trong những tháng đen tối nhất của Việt Nam Cộng Hòa, người đã đóng góp công sức cho một giải pháp với hy vọng cứu vãn được Miền Nam Việt Nam tạm thời khỏi rơi vào tay Bắc Việt, nhưng rất tiếc là không thành công vì nhiều lý do ngoài ý muốn của ông.

(Quyển "Saigon Et Moi" được giới thiệu ngày 23/3/1985 tại khách sạn La Fayette, quận 6, Paris. Trong hàng cử tọa ngày hôm đó có một số nhân vật quan trọng lúc bấy giờ như cựu Tổng Thống Giscard d' Estaing, thị trưởng Jacques Chirac, Ông Pierre Mesmer v.v... nhưng sau đó hình như tác giả không được phép của Bộ Ngoại Giao (hay của chánh phủ Pháp) nên không có thể phổ biến quyển sách nầy ra thị trường. Và cho đến giờ nầy không còn ai tìm thấy tung tích quyển sách nầy nữa ở bất cứ thư viện nào bên Pháp, kể cả Thư Viện Quốc Gia Pháp ở Paris, cũng như sau nầy chính Ông Mérillon đã đính chánh ông không phải là tác giả của quyển "Saigon Et Moi" hay bất cứ quyển nào khác viết về Việt Nam. Tuy nhiên các báo Việt Nam tại Pháp lúc bấy giờ đều có đăng bản tóm lược của quyển sách nầy, mà bản tóm lược của ông Vũ Hải Hồ tại Paris là một.

Hy vọng một ngày nào đó nếu có duyên may tìm được quyển sách quý "Sài Gòn et Moi" thì chúng tôi sẽ xin tiếp tục dịch để cống hiến cho quý vị độc giả. Bây giờ thì xin giới thiệu quý vị phụ bản đặc biệt nầy, trích từ tập san ĐA HIỆU).

Dương Hiếu Nghĩa (dịch)

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA
NGƯỜI ĐI KHÔNG MUỐN LƯU LẠI BẰNG CHỨNG

Đã đến lúc Đại Sứ Martin phải nói thật với tôi: Nước Mỹ cần phải làm gì vào những ngày sấp tới khi Phan Rang thất thủ? Và Mỹ cần xác minh thái độ đối với Dương văn Minh mới hôm qua vừa đòi Nguyễn văn Thiệu từ chức .

Ông Martin đã lưỡng lự rất nhiều rồi mới nói cho nước Pháp hay rằng Hoa Kỳ sẽ bỏ rơi Miền Nam . Còn nước Pháp thì muốn cố giữ Miền Nam bằng một chánh phủ trung lập giả định, biết rằng đó chưa hẳn là một liều thuốc hồi sinh cho toàn thể chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa một cách công hiệu, nhưng chẳng còn phương thức cấp cứu nào phù hợp với tình thế lúc đó.

TỐI 18/4/75 :

Qua điện thoại, lần thứ nhất Ông Martin mới nói ra ý định của Hoa Kỳ. Đối với chính trường nước Mỹ thì chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt sau Hiệp Định Paris năm1973. Vấn đề còn lại là giải thể Hoa Kỳ tại Đông Dương.

Ông Martin muốn nhờ tôi làm trung gian chuyển đạt ý muốn của Mỹ cho phía Việt Cộng. Tôi bèn trả lời:

- "Điều mà ông yêu cầu, tôi sẽ thõa mãn cho ông 5 tiếng nữa nếu không có gì trở ngại trong việc liên lạc. Tuy nhiên tôi phải phúc trình lên chánh phủ của tôi, vậy ông Đại Sứ gởi cho tôi một công hàm ủy thác làm việc nầy."

- "Không thể được" người ta không muốn lưu lại bằng chứng.

- "Như thế từ giờ phút nầy nước Pháp sẽ đãm nhận vai trò hòa bình cho Việt Nam theo chủ thuyết của Pháp."

- "Chúng tôi cám ơn nước Pháp. Với tư cách cá nhơn tôi hoàn toàn chống lại chủ trương của Hoa Kỳ dành trọn quyền thắng trận cho Việt Cộng."

Sau đó chúng tôi chuyển sang phần tâm sự gia đình, hỏi thăm sức khỏe bà Đại Sứ v.v... Đại Sứ Martin cho biết nước Mỹ quá chán ngấy những vụ đão chánh trước kia nên để cho ông Thiệu từ chức rồi ra đi hơn là đão chánh. Vai trò của Nguyễn cao Kỳ không còn cần thiết sau khi Hoa Kỳ đã tặng phần thắng cho Việt Cộng.

Ngày 30/4, trước 3 tiếng đồng hồ hạ cờ Hoa Kỳ sau 20 năm bay trên vòm trời Việt Nam, Đại Sứ Martin gọi điên thoại vấn an, chúc tôi ở lại xứ sở nầy tiếp tục sứ mạng hòa bình, đồng thời khuyến khích tôi "còn nước còn tát."

Công việc đầu tiên của tôi là liên lạc với Phan Hiền trong trại Davis (Tân sơn Nhất) cho biết chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam của Huỳnh tấn Phát muốn ấn định rõ thời hạn Mỹ rút quân khỏi Việt Nam . Phan Hiền bèn hỏi lại tôi là nên ấn định vào ngày nào? Sự giàn xếp người Mỹ ra đi cũng làm phiền phức tôi không ít. Ông trưởng phòng CIA xúi ông Tổng Giám Đốc Liên Đoàn Lao Công Việt Nam kiếm khoảng 20.000 người mặc quần áo nông dân biểu tình trước Tòa Đại Sứ Mỹ đòi Mỹ phải ở lại giúp Việt Nam. Ông Trần quốc Bửu hứa sẽ làm được, nhưng rồi chẳng thấy biểu tình chi cả. CIA chưa muốn đi vội, có vẻ muốn ở lại để tổ chức phá rối cộng sản như họ đã từng làm ở ngoài Bắc sau Hiệp định Genève 1954. Trưởng phòng thương mại Mỹ xin gia hạn đến tháng 6 để giúp các hảng thầu,ngân hàng, các nhà kinh doanh di tản các dụng cụ xí nghiệp, cơ xưởng máy móc về Mỹ. Nhưng rồi Đại Sứ Martin nhận được lệnh của Tòa Bạch Ốc là người Mỹ và tất cả những gì liên hệ đến Mỹ phải rời khỏi Việt Nam chậm lắm là cuối tháng 4/75.

Đại tướng Pháp Vanuxem chạy chỗ nầy chỗ kia với thiện chí cố vấn cho ông Thiệu phản công, nhưng vô ích. Tôi được thông báo Mỹ đã sắp xếp ngày đi cho ông Thiệu đâu vào đó cả rồi. Tướng Vanuxem, người từng chỉ huy ông Thiệu, than thở với tôi: "Thiệu "lủy" không nghe "moa", đánh giặc theo kiểu Mỹ sẽ thua không còn một mảnh đất để thương thuyết với Việt Cộng."

Ngày 18 tháng 4 chúng tôi xác nhận ngày di tản của Hoa Kỳ với Phan Hiền.

Trước khi lập chánh phủ giả định, tôi xét phản ứng của Nga Sô và Trung Cộng. Nước nhiệt thành đầu tiên là Trung Cộng. Thủ Tướng Chu ân Lai điện cho Bộ Ngoại Giao Pháp là sẵn sàng hợp tác với Pháp để xây dựng một chánh thể trung lập tại Miền Nam nếu có thành phần MTGPMNVN tham dự.

Tại Hànội, cuộc vận động với Đại Sứ Nga được xem là mấu chốt của vấn đề. Nhưng Đại Sứ Nga, ông Malichev từ chối, nói rằng: "Chủ quyền xây dựng chính thể Việt Nam do đãng cộng sản Bắc Việt quyết định. Ngoài tình hữu nghị cũng như các sự giúp đở Việt Nam, Nga chẳng có quyền hạn gì cả." Lời tuyên bố đó giống như một kẻ ăn trộm nho bị bắt quả tang rành rành mà vẫn cứ chối bai bải là mình chỉ đi dạo mát trong vườn nho mà thôi. Chẳng là vì chúng tôi có đủ tin tức tình báo nói rõ có 5 vị tướng lãnh Nga có mặt trong Bộ Chỉ Huy chiến dịch Hồ chí Minh tại chiến trường Long Khánh. Không lẽ các vị ấy chỉ ngồi uống trà nói chuyện chơi với Văn tiến Dũng hay sao ?

Toàn thể các nước Đông Nam Á lo ngại một nước Việt Nam độc lập dù dưới một chánh thể nào trong tương lai. Đối với họ, Việt Nam mãi mãi có chiến tranh bao giờ cũng có lợi hơn một Việt Nam hòa bình thống nhất. Theo quan điểm đó, khối Đông Nam Á tán thành Việt Nam được đình chiến trong trung lập hơn là thống nhất trong độc lập. Quan niệm nầy lan rộng cả Á Châu, đặc biệt là Nhật Bản, nước Nhật sẽ hết mình đóng góp cho Đông Dương trung lập. Duy có Nam Dương cực lực phản đối. Nam Dương chưa nguôi mối thù Trung Cộng đạo diễn cuộc đão chánh hụt năm 1965, nên bác bỏ giải pháp đình chiến tại Việt Nam có Trung Cộng tham dự.

(Mãi đến năm 1978, tướng Suharto có gởi cho tôi một bức thơ tỏ ý hối tiếc là lúc đó chánh phủ ông đã có nhận xét sai lầm về những ý kiến của chúng tôi).

Mao thì ghét cay ghét đắng Lê Duẫn thân Nga, thành thử những điều kiện Bắc Kinh đặt ra là phải hạ bệ đảng viên thân Nga, cầm chân quân Bắc Việt để dành cho MTGPMN tiến vô Sài Gòn.

Thực ra nền trung lập đối với chúng tôi chỉ coi như tạm thời ngăn cản dòng nước lũ, cho Việt Nam Cộng Hòa tạm dung thân.

Lời giao ước chánh trị khác hẳn với lời giao ước ngoại giao. Bắc Kinh chỉ giao ước bằng miệng là sẽ tìm cách cản trở Bắc Việt chậm nuốt Miền Nam , biện pháp quân sự coi như yếu tố cần phải có. (Rất tiếc chờ mãi đến năm 1978 Trung Cộng mới dùng biện pháp nầy để dằn mặt Việt Nam).

Phần chúng tôi là phải đáp lời hứa là thành lập chánh phủ liên hiệp gồm 3 thành phần: Quốc gia, Đối lập, và MTGPMN. Chu Ân Lai đưa ra một danh sách: Trương như Tảng, Nguyễn thị Bình, Đinh bá Thi, thiếu tướng Lê quang Ba, trung tướng Trần văn Trà, ngỏ hầu làm lực lượng nồng cốt thân Tàu trong chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc Việt Nam. Điều kiện họ đưa ra thoạt nhìn thì không thấy có gì trở ngại, nhưng thực hiện lại vô cùng khó khăn. Vì những người nầy không có thực lực hay quyền hành gì cả. Toàn thể quyền hòa hay chiến đều do Lê Duẫn nắm cả. Trên Lê Duẫn một bực là Mạc tư Khoa. "Dường như đã từ lâu phe quốc gia lẫn phe cộng sản Việt Nam đều đã không có quyết định gì về số phận đất nước của họ"

Móc nối với Trung Cộng thỏa thuận đâu vào đó cả rồi, sáng ngày 22/4 tôi mời phái đoàn Dương văn Minh vào tòa Đại Sứ tiếp xúc với chúng tôi. Phái đoàn nầy có nhiều nhân vật đang tập sự làm chánh trị, những kẻ chuyên sống nhờ xác chết của đồng bào họ: Huỳnh tấn Mẫm, Hoàng phủ Ngọc Tường, Ngô bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên, Lý quý Chung, Vũ văn Mẫu, Hồ ngọc Cứ v.v... Tôi thấy ông Dương văn Minh đã liên lạc quá vội với một thành phần vô ích. Những khuôn mặt nầy Bắc Việt chưa biết họ, còn hao công giúp Bắc Việt thì chỉ có việc chưởi tầm bậy chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Tôi đi ngay vào vấn đề hỏi chung trước mặt mọi người là: "Chúng tôi hết sức ủng hộ người Việt Nam thành lập một chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc. Vậy trong những ngày sấp tới có những cuộc thương thuyết xảy ra, quí vị có đồng ý nhận quí vị là đại biểu các khuynh hướng chánh trị ở Miền Nam không ? Chiến tranh đang đến hồi dứt khoát phải có kẻ thua người thắng. Hảy cho chúng tôi biết, chánh phủ quí vị tới đây sẽ thua hay Việt Nam Cộng Hòa thua, hoặc MTGPMN thua ? "

Huỳng tấn Mẫm cướp lời Dương văn Minh nói trước:

- "Thưa ông Đại Sứ Pháp, cuộc chiến nầy Mỹ đã thua, Tất cả người Việt Nam chúng tôi thắng trận"

Căn cứ theo lời của Huỳnh tấn Mẫm, tôi đoán ngay hắn là một thứ bung xung trước thời cuộc, háo danh, sẵn sàng làm tôi mọi cho bất cứ chế độ nào chịu cấp phát tước quyền cho hắn. Nếu biết khôn và khách quan nhận định thì hắn phải nói như vầy: "Bọn phản chiến Mỹ thua trận, và tất cả người Việt Nam thắng trận trong một nền hòa bình rơi nước mắt."

Bà ni sư Huỳnh Liên nói nhiều lắm. Bà kể lể "tín đồ Phật Giáo bị kềm kẹp từ 20 năm qua, nếu cộng sản thắng thì đó là lời cầu nguyện của hàng triệu phật tử Việt Nam "

Luật sư kiêm chánh trị gia Vũ văn Mẫu có vẻ già dặn hơn. Ông đặt tiếng "nếu" ở mỗi mệnh đề để thảo luận. "Nếu" chính phủ tương lai mà trong đó có ông làm thủ tướng thì viễn ảnh hòa bình sẽ nằm trong tầm tay dân tộc Việt Nam v.v.." Ông cũng ngỏ lời cam ơn tôi dàn xếp thời cuộc để lập ván bài trung lập tại Việt Nam .

Đây là buổi thăm dò quan niệm, nhưng những con cờ quốc tế đã gởi cho tôi từ trước không có Huỳnh tấn Mẫm, Ngô bá Thành, Huỳnh Liên, Vũ văn Mẫu và Lý quý Chung. Tôi lễ phép mời họ ra về, ngoại trừ đại tướng Dương văn Minh để thu xếp nhiều công việc khác.

Tiển ra tận thềm sứ quán, tôi có nói mấy lời để họ khỏi thất vọng sau nầy :

- "Thưa quí vị, thiện chí thành lập tân chánh phủ, điều đó không ai chối cải công lao của quí vị. Tuy nhiên thẩm quyền tối hậu giờ phút nầy nằm trong tay Hànội. Nước Pháp chỉ làm một việc có tính cách trung gian hơn là chủ động'

Mọi người trợn ngược tròng mắt nhìn tôi hết sức ngạc nhiên. Ông Vũ văn Mẫu nói nhỏ với tôi một câu bằng tiếng Latinh; "Tôi muốn đi Pháp nếu tân chánh phủ không đuợc Hànội nhìn nhận."

Khi trở vào, Đại tướng Dương văn Minh ngồi đó chờ tôi, nét mặt sung mãn, tự hào là đã nắm vững thời cuộc. Vừa nghe chuông điện thoại reo, tùy viên giao tế của chúng tôi giới thiệu người bên kia là Võ đông Giang. Đường dây điên thoại viễn liên nầy kêu qua tòa Đại Sứ Pháp ở Tân gia Ba rồi cũng dùng đường dây nầy chuyển về Bộ Ngoại Giao Hànội. Tại Hànội họ sẽ móc đường dây tiếp vận vô Nam để tiếp xúc với vị Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, vì ông nầy muốn gập tôi có chuyện gấp. Tôi đồng ý nhưng phải chờ hai tiếng đồng hồ nữa mới bắt xong đường dây như thế.

KẾ HOẠCH THỨ NHẤT

Thành phần chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc , đồng chủ tịch là hai ông Dương văn Minh và Trần văn Trà. Ba phó chủ tịch là Vũ văn Mẫu, Trịnh đình Thảo và Cao văn Bổng. Tổng trưởng quốc phòng Phạm văn Phú. Tổng trưởng ngoại giao Nguyễn thị Bình. Tổng trưởng tư pháp Trương như Tảng. Tổng trưởng nội vụ Vũ quốc Thúc. Tổng trưởng kinh tế Nguyễn văn Hảo. Tổng trưởng thương mại Lê quang Uyễn. Tổng trưởng tài chánh Trần ngọc Liễng. Xen kẻ nhau nếu tổng trưởng quốc gia thì Đổng lý văn phòng là người của MTGPMN, và ngược lại. Hội đồng cố vấn chánh phủ có: Nguyễn hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Thích trí Quang, Lương trọng Tường, Hồ tấn Khoa, Linh mục Chân Tín, Cựu thủ tướng Trần văn Hữu.

Hai mươi bốn giờ sau khi công bố thành phần chánh phủ, nước Pháp sẽ vận động các nước Âu Châu, Á Châu và các nước phi liên kết công nhận tân chánh phủ hòa giải Việt Nam, làm chậm lại bước tiến xe thiết giáp Liên Xô mưu toan đè bẹp Sài Gòn.

KẾ HOẠCH THỨ HAI

- "Thưa Đại tướng, ông Nguyễn văn Thiệu để lại quân đội nầy còn bao nhiêu người? Hoa Kỳ để lại vũ khí nếu dùng được ở mức độ phòng thủ thì đuợc bao lâu ?

Đại tướng Dương văn Minh trả lời là ông chưa nắm vững quân số vì hơn chín năm ông không có dịp biết các bí mật quốc phòng.

- "Thưa Đại tướng, đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi sẽ phúc trình cho đại tướng biết sau. Theo chúng tôi, quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn đủ khả năng chiến đấu thêm 10 tháng nữa, nếu các nhà quân sự chịu thay đổi chiến thuật từ quy ước sang du kích chiến. Ngay từ bây giờ Đại tướng còn 2 Quân đoàn. Phải dùng hai Quân đoàn nầy mặc cả cho thế đứng của phía quốc gia. Tôi tung liền giải pháp trung lập đồng thời tạo áp lực ngoại giao ngừng bắn 7 tiếng đồng hồ. Trong khi đó Đại tướng kịp thời chỉnh đốn quân đội và chọn các tướng lãnh có khả năng trường kỳ phản công. Tôi tin tuởng Việt Nam Cộng Hòa chưa thể thua và đích thực Bắc Việt đang lúng túng chưa biết họ sẽ chiến thắng bằng cách nào đây.

KẾ HOẠCH THỨ BA

Cùng lúc mời thành viên MTGPMN hợp tác trong chánh phủ trung lập, Đại Tướng tuyên bố sẳn sàng bang giao với Trung Quốc và các nước theo chủ nghĩa xã hội, dĩ nhiên trong đó có cả Liên Xô.

Trung Quốc sẽ chụp lấy cơ hội nầy để cử Đại Sứ đến Sài Gòn ngay sau 24 giờ cùng với tiền viện trợ 420 triệu Mỹ kim là tiền sẽ trao cho Hànội mà nay trao cho chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc. Kế hoạch nầy đánh phủ đầu Hànội bằng cách đưa đứa con nuôi của họ là MTGPMN lên nắm chính quyền (một lực lượng mà từ trước đến nay Hànội vẫn ra rã trước dư luận là dân Miền Nam đứng lên chống Mỹ, chớ Hànội không có dính dáng gì hết).

Đi từng bước, lần lượt tân chánh phủ sẽ lật lại từng trang giấy ký ngưng bắn trong Hiệp Định Paris, giao cho Trung Quốc cưởng ép Hànội vào bàn hội nghị nói chuyện ngưng bắn tức khắc.

Quả thật Trung Quốc muốn cứu sống MTGPMN để xây dựng ảnh hưởng của mình tại Đông Dương. Phe quốc gia cũng muốn cứu cấp Sài Gòn đừng lọt vào tay cộng sản . Như vậy hai quan niệm cùng có một mục đích, còn có thể dàn xếp được là tốt hơn cả, vì đừng để cho bên nào thắng.

Tôi cũng thông báo cho ông Minh hay là tôi đã liên lạc với thành viên MTGPMN. Hầu hết đều tán thành giải pháp giúp họ thoát khỏi vòng quỷ đạo của Bắc Việt. Họ chạy theo HàNội là muốn tiến thân sự nghiệp chánh trị bằng con đường hợp tác với cộng sản, nếu giúp họ nắm được chánh quyền Miền Nam thì phương tiện dùng cộng sản Bắc Việt đã quá lỗi thời.

Bà Bình từ đầu đến cuối đã hợp tác chặt chẻ với chúng tôi. Thêm một bằng chứng: 17 ngày sau khi Sài Gòn mất, bà Bình còn tuyên bố trước Liên Hiệp Quốc dụng ý tống khứ đạo quân Bắc Việt về bên kia Bến Hải: "Miền Nam Việt Nam sẽ sinh hoạt trong điều kiện trung lập 5 năm trước khi thống nhất hai miền Nam Bắc.". Các nhà phân tích thời cuộc nói chỉ cần 5 tháng Miền Nam sống dưới chánh phủ trung lập thay vì có diễm phúc 5 năm, có lẽ hòa bình Việt Nam sẽ ở trong hoàn cảnh thơ mộng tươi đẹp rồi. Bà Bình bị thất sủng sau lời tuyên bố đó.

Nước Pháp sẽ trao 300 triệu quan chuyển tiếp từ chế độ Việt Nam Cộng Hòa giao cho tân chánh phủ để nuôi sống giải pháp trung lập. Chúng tôi sẽ quyên góp các nước bạn đồng minh Âu Châu một ngân khoảng độ 290 triệu mỹ kim cho các chương trình viện trợ kinh tế, văn hóa, phát triển nông nghiệp, nhân đạo v.v...tổng cộng cũng gần bằng viện trợ của Hoa Kỳ trước đây.

Bấy nhiêu đó cũng đủ nuôi dưỡng tạm thời chánh phủ Dương văn Minh Trần văn Trà, để rồi người quốc gia tranh thủ với cộng sản duy trì một Miền Nam không nhuộm đỏ màu cờ.

Đại tướng Dương văn Minh không nói chi nhiều, ông lắng nghe tôi trình bày cặn kẻ từng kế hoạch, và nói ông sẳn sàng thực hiện theo quan điểm của chúng tôi. Ông chỉ nêu một câu hỏi duy nhất:

- "Dưới hình thức nào tôi thay thế cụ Trần văn Hương để thành lập nội các để thương thuyết với phía bên kia?"

- "Thưa Đại tướng, cụ Trần văn Hương hôm qua vừa thảo luận với chúng tôi là sẽ trao quyền chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa lại cho Đại tướng, nếu Đại tướng có một kế hoạch không để mất Sài Gòn ."

Sự thực từ lúc ông Thiệu tuyên bố từ chức, ông Minh đã nhiều lần thúc hối chúng tôi tiến dẫn ông nắm chánh quyền ngay lúc ấy. Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu nầy. Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu đó vì chưa tiếp xúc được với thành phần MTGPMN. Hơn nữa ông Minh ra lãnh đạo guồng máy quốc gia không mang điều mà thế giới mong đợi sau khi Hoa Kỳ rút đi. Khi chúng tôi giới thiệu tướng Minh sẽ là nhân vật cho ván bài trung lập của Pháp tại Việt Nam thì cụ Trần văn Hương sửng sốt và tỏ vẻ phiền trách: "Nước Pháp luôn luôn bẻ nho trái mùa! Tưởng chọn ai chớ chọn Dương văn Minh, nó là học trò tôi, tôi biết nó quá mà. Nó không phải là hạng người dùng trong lúc dầu sôi lửa bỏng... Tôi sẽ trao quyền lại cho nó nhưng nó phải hứa là đừng để Sài Gòn thua cộng sản ." Có sự hiện diện của ông Trần chánh Thành là người rất am tường thực chất cộng sản, chúng tôi giải thích với cụ là Bắc Việt rất sợ MTGPMN đoạt phần chiến thắng, công khai ra mặt nắm chánh quyền. Chúng ta nên nắm ngay nhược điểm của họ mà xoay chuyển tình thế. Nếu để một nhân vật diều hâu lãnh đạo, Bắc Việt sẽ viện cớ Việt Nam Cộng Hòa không muốn hòa bình rồi thúc quân đánh mạnh trong lúc quân đội chưa kịp vãn hồi tư thế phản công. Tạm thời dùng công thức hòa hoãn thôi.

Cụ Trần văn Hương thông cảm kèm theo lời thở dài tỏ ra mất tin tưởng. Kế hoạch của chúng tôi vô tình đã đè bẹp tin thần chống cộng sắt đá của cụ. Theo cụ thì giải pháp hữu hiệu là bỏ ngỏ Sài Gòn, tổng động viên những vùng đất còn lại để tiếp tục đánh cộng sản. Chọn giải pháp nầy sẽ đổ máu thêm, nhưng chiến tranh nào mà không đổ máu, ít nhất Việt Nam Cộng Hòa không thua một cách mất mặt.

Mười năm sau tôi thấy kế hoạch của cụ Trần văn Hương đúng. Nếu lúc bấy giờ các nhà lãnh đạo quân sự Miền Nam đừng bỏ chạy quá sớm, yểm trợ cụ, thì có thể gở gạc được thể diện người Quốc gia Miền Nam. Tôi kính mến cụ già Trần văn Hương, Người Việt Nam nhận xét cụ bất tài, già nua lẩm cẫm, song chúng tôi thấy cụ là một người Việt Nam trung tín, sống chết cho lý tưởng, can đãm trước mọi tình huống. Năm 1976, nghe cụ bị bệnh nặng, thiếu thốn phương tiện chữa trị, chúng tôi yêu cầu Tổng lảnh sự Pháp ở Sài Gòn vận động với nhà cầm quyền HàNội cho cụ sang Pháp chữa bệnh. HàNội còn cần Pháp làm giao điểm tuyên truyền chủ nghĩa xã hội, sẽ không làm khó dễ trong việc cấp giấy xuất cảnh, nhưng cụ từ chối, quyết định ở lại chết tại Việt Nam . Chúng tôi vẫn nhớ lời cụ nói năm 1975: "Ông Đại Sứ à, tui đâu có ngán Việt Cộng, nó muốn đánh tui đánh tới cùng. Tui chỉ sợ mất nước, sống lưu đày ở xứ người ta. Nếu trời hại nước tui mất, tui xin thề ở lại đây và mất theo nước mình." Cụ Trần văn Hương đã giữ lời hứa.

Đại tướng Dương văn Minh ra về, chúng tôi hẹn gặp lại nhau. Trong lúc nầy, về phía Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi không quên nhắc nhở đại tướng Dương văn Minh gấp rút tổ chức lại quân đội, liên lạc thường xuyên với tướng Nguyễn khoa Nam, khuyến khích vị tướng nầy giữ vững các vị trí phòng thủ để còn một mảnh đất làm địa bàn ăn nói khi thương thuyết với phía bên kia. Ngay lúc đó tôi biết ông Dương văn Minh cách đây hai ngày đã liên lạc với người em ruột là thiếu tướng Dương văn Nhật, nhờ môi giới để nói chuyện thẳng với Bắc Việt. Vì hấp tấp, nông cạn, ông tưởng em ông có đủ tư cách đại diện cộng sản ngưng bắn tại Miền Nam . Từ chỗ móc nối sai lệch, tình thế đã xỏ mũi ông đến chỗ phá nát bấy hết kế hoạch hòa bình Việt Nam .

(GHI CHÚ của dịch giả DHN: Dương văn Nhật không phải là một thiếu tướng mà chỉ là một thiếu tá thường, trực thuộc MTGPMN nên không phải là một nhân vật quan trọng. Cộng sản đã cho về liên lạc thường xuyên với Dương văn Minh trước đó như là một liên lạc viên xoàng để săn tin mà thôi, và đã được lệnh kín đáo nằm luôn tại nhà Dương văn Minh từ khi chúng tiến chiếm tỉnh Banméthuột. Có lẽ ông Dương văn Minh muốn đưa em ông lên hàng tướng vì lý do thể diện chăng? Sau 30/4/75 mới là trung tá))

LÊ ĐỨC THỌ THÓA MẠ TÔI

Chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia tự giới thiệu:

- "Chào ông Đại Sứ, tôi là B trưởng B2 đây.""

Tôi chào lại và rất ngạc nhiên không biết B trưởng B2 là nhân vật nào. Thái độ thiếu lịch sự xã giao qua lời giới thiệu tên họ chức phận bằng bí danh của đầu dây bên kia chứng tỏ họ coi thường chúng tôi. Tôi gằn mạnh từng tiếng:

- "Nếu đầu dây bên kia muốn trao đổi câu chuyện với tôi thì nên tỏ ra lịch sự một chút. Khi tiếp xúc với một nhà ngoại giao thì dù thù hay bạn cũng vậy. Thưa ông B trưởng B2, chắc ông thừa hiểu ông đang nói chuyện với Đại sứ nước Pháp, và bắt buộc tôi phải cúp nếu ông không nói tên họ, chức phận. Nguyên tắc của ngành ngoại giao đối lập với ngành gián điệp là không tiếp xúc với hạng người bí mật."

B2 xin lỗi tôi liền khi đó, bảo rằng ông ta sợ CIA phát hiện sự có mặt của ông ở Miền Nam trong lúc hoàn cảnh chưa cho phép ông xuất đầu lộ diện. Ông cũng rất phiền khi bị ép buộc nói tên họ:

- "Thưa ông Đại sứ, tôi là Lê đức Thọ, Tổng tư lệnh chiến dịch Hồ chí Minh."

thì ra Lê đức Thọ, con người khuynh đão trong các cuộc hòa đàm Paris . Tiểu sử Thọ từ năm 1937 chúng tôi có đầy đủ trong tay, duy tôi chưa gặp mặt nên không nhận được giọng nói qua điện thoại. Sau Tết Mậu Thân, Phòng nhì Pháp đã có đủ tài liệu để biết Lê đức Thọ là Tổng chỉ huy bộ máy chiến tranh tại Miền Nam . Y từ Nga trở về hồi tháng giêng 1975, và đi thẳng vào Nam trực tiếp chỉ huy tổng tấn công Sài Gòn. Mà Phòng nhì biết thì CIA cũng biết. Tôi nói:

- "Chào ông Tổng tư lệnh, qua vai trò trung gian và với thiện chí lớn lao nhất, nước Pháp hết lòng đứng ra hòa giải các phe tranh chấp để sớm đạt được một nền hòa bình tại Việt Nam. Ông Tổng tư lệnh có cần gởi đến chúng tôi những quyết định gì từ phía Bắc Việt nhằm tức khắc giải quyết chiến tranh không? Chúng tôi sẽ chào mừng quyết định của quí vị.’

Thấy mình là kẻ chiến thắng trong canh bạc về sáng, Lê đức Thọ tố xa láng, không cần che đậy bề trái của sự thật nữa:

- " Quyết định của đãng cộng sản chúng tôi là đánh gục Mỹ, thống nhất hai miền Nam Bắc, xây dựng nước Việt Nam theo con đường Mác xít Lê nin nít".

- "Thưa ông Tổng tư lệnh, đó là mục đích. Còn quyết định chấm dứt cảnh cốt nhục tương tàn của người Việt, chưa thấy đãng cộng sản Việt Nam nói tới ?"

Lê đức Thọ hùng hồn giảng thuyết (chỗ nầy ông Mérillon không cho biết Lê đức Thọ nói bằng tiếng gì, vì y nói tiếng Pháp còn kém lắm:

- "Thưa ông Đại sứ, tôi xin nói về chính danh và ý nghĩa cuộc chiến đấu của chúng tôi. Sau khi đánh bại bọn đế quốc Pháp, đãng và nhân dân chúng tôi tiếp tục sự nghiêp đánh bọn ngoại xăm đế quốc Mỹ. Cuộc chiến đấu nầy từ lâu đã được nhân dân thống nhất thành một phong trào chống Mỹ. Từ ngữ "cốt nhục tương tàn" tôi bảo đãm với ông đại sứ là do bọn tay sai ngụy quyền Sài Gòn khơi lên để kêu gọi lòng thương hại của chúng tôi, chớ không phải lời oán than từ phía nhân dân. Xác nhận như vậy để ông đại sứ thấy rằng chúng tôi chưa hề chính thức hóa một nghị trình hòa giải nào với bất cứ đãng phái nào tay sai trong Miền Nam với quyết định của chúng tôi là để thắng chớ không phải để hòa giải."

- "Thưa ông Tổng tư lệnh, trường hợp nầy thì vị trí của MTGPMN ở đâu?"

- "Nó sẽ đứng ở chỗ giải tán khi: một là Đại sứ Mỹ bị bắt, hai là cuốn cờ bỏ chạy trước khi người cộng sản yêu nước tiếp thu Sài Gòn".

- "Nếu đúng như thế, M TGP MN không phải là một thực thể riêng biệt, tách rời quyền lực HàNội đứng lên chống Mỹ từ 15 năm qua, và các ông đã lừa gạt dư luận quốc tế."

- "Thưa ông Đại sứ, dư luận quốc tế hả ? Mà dư luận nào mới được chớ? Nếu dư luận quốc tế thuộc khối tư bản thì không xứng đáng để phẩm bình. Đối với nước Pháp chúng tôi xem là bạn. Thưa ông Đại sứ, chúng ta sẽ bang giao trong tình hữu nghị giửa hai nước."

- "Trung Quốc đang yêu cầu chúng tôi dàn xếp một cuộc đình chiến tại Việt Nam, ông nghĩ sao?

- "Trung Quốc thuộc bọn xét lại, đã biến thể và phản bội nghĩa vụ giải phóng nhân loại qua chủ nghĩa Lênin. Mọi việc nhúng tay vào của Trung Quốc chúng tôi xem đó là hành động thù nghịch. Riêng ông Đại sứ, ngay bây giờ xin ông nhận lời cảnh cáo của chúng tôi. Nếu ông Đại sứ còn tiếp tay với Trung Quốc và các thế lực ngoại bang khác ngăn cản đà chiến thắng chống đế quốc Mỹ ở Miền Nam , thì 24 giờ sau khi tôi đặt chân vào Sài Gòn tôi sẽ trục xuất ông Đại sứ ra khỏi Việt Nam."

- "Làm như vậy ông không ngại gây sự hiềm khích giữa hai nước sao?"

- "Không, Chánh trị và quyền lợi không chú ý tới những vấn đề nhỏ nhặt giữa hai nước . Pháp còn quyền lợi tại Việt Nam . Pháp đừng nên gây hấn với Việt Nam bằng giải pháp trung lập nầy nọ, cũng đừng nên chen vào nội bộ của chúng tôi."

- "Thưa ông Tổng tư lệnh, ông nên nhớ Pháp ngày hôm nay không phải là Pháp đô hộ ngày hôm qua. Pháp chẳng có quyền lợi gì nếu phải bang giao với một nước Việt Nam cộng sản. Nếu ông cảnh cáo chúng tôi , bù lại xin ông và đãng cộng sản Việt Nam tiếp nhận lời cảnh cáo của chúng tôi là số tiền 300 triệu hằng năm viện trợ Miền Nam va 200 triệu viện trợ nhân đạo cho Bắc Việt sẽ không được chuyển giao nếu giải pháp trung lập bị bác bỏ một cách vô nhân đạo."

Lê đức Thọ có vẻ căm tức, nhưng lần nầy vì lịch sự, y nói vài lời cáo lỗi rồi cúp điện thoại, đúng với ý muốn của tôi.

Thật ra chúng tôi cũng vẫn biết cuộc chiến tranh nầy do tập đoàn HàNội quản lý từ đầu đến cuối, nhưng không trắc nghiệm được phản ứng ngang tàng của họ mà đại biểu chánh thức là Lê đức Thọ, nhất định nuốt Miền Nam bằng lá bài quân sự.

Sự kiện nầy đã khuyến khích tôi tìm kiếm những phương pháp cấp thời chỉnh đốn lại quân đội Việt Nam Cộng Hòa giữ vững phòng tuyến để kéo dài thời gian mặc cả.

Tôi rất ghét người cộng sản thiếu quân tử (đó là cái chắc!) khi họ thắng trận. Lê đức Thọ là một điển hình năm 1964. Thọ đã từng xin chúng tôi giúp y nói chuyện trực tiếp với Hoa Kỳ, chúng tôi không hề từ chối. Bất cứ điều gì cần đến, nếu thỏa mãn được thì chúng tôi cho ngay. Họ có mang ơn nước Pháp chớ nước Pháp chưa hề chịu ơn họ. Đến khi nước Pháp muốn Việt Nam có hòa bình trên nền tảng trung lập có thành phần quốc gia tham dự, HàNội đã bạc ơn từ chối.

Khi xe tăng Nga vượt hàng rào Dinh Độc Lập lúc 11 giờ sáng thì tới 3 giờ chiều Lê đức Thọ ngồi trên xe Falcon đến tòa Đại Sứ Pháp xấc xược đi thẳng vô phòng tôi nói:

- "Mérillon, tôi đến đây tống cổ ông rời khỏi Sài Gòn trước 9 giờ sáng mai "

Tôi gật đầu. Sáng hôm sau ngày 1-5-75 , Thọ còn hạ nhục tôi bằng cách cho công an xét va li và bắt tôi phải ra HàNội trước khi về Pháp. Tôi phản đối. Khi phi cơ cất cánh, tôi ra lệnh cho phi công bay luôn sang Bangkok thay vì ra HàNội .

Hành động sỉ nhục một Đại sứ, Lê đức Thọ và công an Việt Nam phải trả một giá rất đắt. Tổng số ngân quỷ viện trợ nhân đạo hằng năm nước Pháp quyết định để dành mua sinh mạng người Miền Nam Việt Nam không hề cho HàNội một cắt nào suốt 10 năm sau.

Ngày 27 tháng 4/1975.

Chiều ngày 27/4/75, tôi nhận được tin rất phấn khởi: Tướng Trần văn Trà bắn tin nhờ tôi cấp tốc thành lập chánh phủ trung lập và ông gởi gấp hai nhân vật thân tín của ông vào chánh phủ, là bà Nguyễn thị Bình và ông Đinh bá Thi (ông này bị HàNội giết vài năm sau bằng tai nạn xe hơi tại vùng Rừng Lá Phan Thiết, sau khi bị Hoa Kỳ trục xuất về tội mua tài liệu tình báo kỹ thuật cho Liên Xô - Lời dịch giả). Tùy viên quân sự của chúng tôi cũng xác nhận là 2 sư đoàn tập kết của Trần văn Trà sẽ vào tiếp thu Sài Gòn, phỏng tay trên của đạo quân Văn tiến Dũng.

CÁC TƯỚNG LÃNH Bị NHỐT TẠI BỘ TỔNG THAM MƯU

Chứng cớ mà Trần văn Trà lấn quyền HàNội trong mưu đồ Miền Nam tự trị được thể hiện ngay sau ngày 30/4/75 . Trần văn Trà chạy nước rút, tự ý thành lập Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định hầu làm bàn đạp cho MTGPMN nhảy lên nắm chánh quyền trước khi Bắc Việt an bài chế độ cộng sản. Chung một mục đích: Bắc Việt đoạt chánh quyền để bành trướng chủ nghĩa cộng sản, còn MT GPM N cướp chánh quyền với thâm ý tạo sự nghiếp danh vọng cá nhân. HàNội có Nga Sô làm điểm tựa, có toan tính theo từng sách lược, còn MT là những chánh trị gia thời cuộc có tính cách giai đoạn nên cuối cùng bị thua trắng tay, bị cưỡng bức phải giải tán, cán bộ bị hạ từng công tác (hay thanh trừng) trong thầm lặng.

Dựa theo quan niệm "còn nước còn tát", chúng tôi không bỏ lở một cơ hội nào có thể duy trì nhịp thở của Việt Nam Cộng Hòa đang hấp hối vào giờ cuối của cuộc chiến. Lúc 9 giờ tối ngày 27/4/75 , chúng tôi họp với các tướng lãnh De Séguins, Pazzi, Bigeard, Langlais, Vanuxem, Gilles, Pierre Bodet. Các tướng nầy đến Sài Gòn ngày 16/4 trong hảo ý phối hợp với các tướng lãnh Việt Nam từng được Pháp đào tạo trước kia để phản công lại Bắc Việt. Họ đến với tư cách cá nhân.

Qua lời xác nhận của tướng Gilles, chỉ huy quân đoàn nhảy dù Pháp trong trận Điện biên Phủ, thì thiếu tuớng Phạm văn Phú không phải thuộc hàng tướng lãnh bỏ lính khi thua trận và chạy dễ dàng như vậy. Tướng Gilles yêu cầu tôi can thiệp với chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa trả tự do cho tướng Phú lúc đó đang bị ông Thiệu nhốt chung với các tướng lãnh khác trong Bộ Tổng Tham Mưu. Ông Thiệu đã làm một việc quá nguy hiểm. Đang lúc quân đội cần tướng mà tướng lãnh bị tống giam, như vậy là có ác ý đập tan nát Bộ Tham Mưu Hành Quân của Việt Nam Cộng Hòa.

Ngày 29/4, tướng Phú nằm trong bệnh viện Grall. Tôi điện thoại trấn an ông, yêu cầu ông đừng bỏ đi sẽ tạo thêm tình trạng hỗn loạn hoang mang cho binh sĩ. Ông húa sẽ không bỏ chạy, nếu không phản công giữ được Sài Gòn thì ông thề bỏ xác tại bệnh viện nầy. Tướng Phú đã giữ lời hứa. Ông là một tướng lãnh mà chúng tôi hết sức tin tưởng trong ván bài trung lập sau Dương văn Minh. Tối 29/4, được tin Dương văn Minh sẽ đầu hàng cộng sản vào sáng mai, ông đã dùng độc dược tự sát.

Các tướng lãnh Pháp cũng đề nghị tôi thực hiện kế hoạch bỏ trống Sài Gòn qua 2 giai đoạn:

- Giai đoạn 1.- Rút phân nữa quân gồm lực lượng tự vệ, an ninh, cảnh sát, những binh đoàn nhảy dù, thủy quân lục chiến , biệt động quân, và các binh chủng thuộc bộ binh, lén di chuyển lúc nửa đêm, sau lưng cộng sản đi lên các tỉnh Bình Dương, Tây Ninh, Phước Long, với nhiệm vụ tái phối trí lực lượng và bồi dưỡng tinh thần binh sĩ.

Phân nữa kia, gồm Hải quân và Không quân di chuyển về miền Tây để dùng cho các trận chiến sông ngòi, cắt đường tiến của cộng sản tràn xuống Quân khu 4 . Mời hai tướng Dương văn Minh và Trần văn Trà công bố chánh phủ trung lập. Sài Gòn là vùng phi quân sự nơi chỉ nói chuyện, thương thuyết bằng giải pháp chánh trị. Sài Gòn không có quân, cộng sản không có cớ đễ tàn phá.

- Giai đoạn 2.- Phản công trên cơ sở du kích, chiếm lại lần hồi đất đai đã mất và chờ quân viện mới. Thay thế chánh phủ trung lập bằng một chánh phủ lưu vong Việt Nam Cộng Hòa. Vai trò Dương văn Minh đến đây coi như chấm dứt. Các tướng Phạm văn Phú, Nguyễn khoa Nam, Lê nguyên Vỹ, Ngô quang Trưởng được xem là thành phần chủ lực cho chiến trường tương lai.

Các tướng lãnh hồi hưu Pháp quả quyết sẽ tìm được nguồn quân viện chẳng mấy khó khăn, qua sự đóng góp của các cựu quân nhân Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Do Thái... nếu có lời kêu gọi của Hiệp Hội Cựu Quân Nhân Thế Giới Tư Do.

Sáng ngày 28/4/75 , tôi chuyển hết kế hoạch nầy cho Dương văn Minh và định tối 28 thì sẽ hoàn tất kế hoạch.

    KẾ HOẠCH CHƯA ĐƯỢC THỰC HIỆN?

Đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi trình bày tỉ mỉ về quân số của đôi bên.

- Quân cộng sản Bắc Việt hiện đang bao vây Sài Gòn gồm các sư đoàn 304, 308, 312, 320, 322, 325 và 2 sư đoàn MTGPMN, 300 thiết giáp, 600 đại bác đủ loại. Tổng cộng quân số khoảng 70.000, tính cả lực lượng trừ bị. Đúng như lời Trung Quốc thông báo, HàNội tung hết quân, bỏ ngỏ HàNội . Giá lúc ấy Trung Quốc chỉ cần cho một vài sư đoàn diễn binh trên biên giới Hoa Việt thì lập tức HàNội sẽ tự ý ngưng chiến và tán thành chánh phủ trung lập rất mau lẹ. Rất tiếc.

- Quân số Biệt khu Thủ đô có khả năng tác chiến, có vũ khí trong tay ước được 100.000. Can cứ vào vũ khí đạn dược, hỏa lực nặng, tiếp liệu, và tinh thần chấp nhận chiến đấu thì Sài Gòn có thể phòng thủ, cầm cự được chừng 7 tháng.

Trong 7 tháng đó biết đâu tình hình lại chẳng thay đổi theo chiều hướng khác? Chúng tôi đưa ra sự kiện nầy nhằm bác bỏ lập luận nói rằng cộng sản Việt Nam sẽ thiêu hủy Sài Gòn với số quân gấp 5 lần.

Kinh nghiệm bọn Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh ngày 17 tháng 4/75, đã xảy ra tình trạng chém giết hỗn loạn nguy hiểm đến sinh mạng Pháp kiều và các phóng viên ngoại quốc, cần Tòa Đại sứ Pháp che chở. Vì vậy ngày 19/4/75 tôi đã yêu cầu Bộ Ngoại Giao Pháp tăng phái cho chúng tôi một trung đội thủy quân lục chiến từ Nouvelle Calédonia đến Sài Gòn để bảo vệ sứ quán. Lại yêu cầu các vị Lãnh Sự ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Đà Lạt, Hué gấp rút kiểm tra lại tổng số Pháp kiều, và phải tiếp tục ở lại nhiệm sở để trấn an dư luận. Khi đó có 722 người là người Pháp chính gốc, 9500 người có quốc tịch Pháp, 11.000 trẻ em lai Pháp sống tại các cơ quan từ thiện. Tất cả 21.000 người nầy sẽ được đưa về Pháp định cư. Tuy nhiên để cứu thêm mạng người, chúng tôi sẽ gởi cho HàNội danh sách đăng ký cho hồi hương thêm những người hồi tịch Pháp, cựu quân nhân tham dự bên cạnh quân đội Pháp trong hai thế chiến, công chức thời Pháp và nhân viên làm việc trong các cơ sở tư nhân Pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi người hội đủ điều kiện như vừa quy định có thể kéo thêm gia đình anh em ruột thịt, con cháu dâu rể bên ngoại cũng như bên nội. Kết quả chúng tôi đem về Pháp tất cả 80..000 người. Để mua thêm người cộng tác với Pháp, mỗi năm chánh phủ Pháp phải trả cho cộng sản máy cày, dược phẩm, các bộ phận bảo trì công ty nhà đèn, thủy cục, nông phẩm v.v...

Chiều 28/4, tướng Pazzi xuống Cần Thơ gặp tướng Nguyễn khoa Nam . Sau đó khi trở về tướng Pazzi cho biết miền Tây rất khả quan, chỉ có quốc lộ 4 tạm thời bị cắt đứt. Tướng Nguyễn khoa Nam đã hai lần yêu cầu ông Dương văn Minh cho phép ông đem quân giải tỏa Quốc lộ 4, phản công.., nhưng Dương văn Minh dặn đi dặn lại mấy lần là đừng phản công mạnh, tạm thời ở tư thế chờ, để ông tìm giải pháp chánh trị tại Sài Gòn. Tướng Nam than thở với tướng Pazzi: "Nếu tôi đánh mạnh là bất tuân thượng lệnh, nếu tôi đánh nhẹ thì tinh thần binh sĩ mất hết. Đến giờ nầy mà bức màng chánh trị còn bịt mắt quân đội. Ông nói lại với tướng Minh giùm là nước tràn bờ mà không cho đắp đê ngăn lại! Ông làm chứng giùm tôi: Quân đoàn 4 chúng tôi không thua. Chính trị Sài Gòn đã trói tay chúng tôi bắt buộc chúng tôi phải thua."

Sáng ngày 30/4/75, sau khi nghe Dương văn Minh đọc bản "trao nước cho giặc", tướng Nguyễn khoa Nam cùng nhiều tướng lãnh liêm sĩ khác đã chọn câu nói của Voltaire để giữ danh dự của người làm tướng; "Còn giữ được danh dự là chưa mất mát nhiều."

Trời đã vào đêm rồi. Đại bác, súng liên thanh nổ gần hơn. Làn sóng người ngơ ngác tìm đường chạy trốn cộng sản nghẹt cứng cả thành phố. Ông Đại tướng Dương văn Minh đâu? Tướng Trần văn Trà đâu? Tại sao những người nầy không xuất hiện để thành lập chánh phủ liên hiệp? Tôi tự hỏi như thế.

Tôi lo lắng, gọi điện thoại về nhà ông Dương văn Minh. Người trả lời là trung tá Đẩu, chánh văn phòng: "Dạ thưa ông Đại sứ, Đại tướng chúng tôi hiện đi lên Xuân Lộc thương thuyết với người phía bên kia."

Bỗng nhiên đầu óc tôi căng cứng từng mạch máu, tay chân bủn rủn. Ông Minh lên Xuân Lộc có nghĩa là gặp trực tiếp thượng tướng Lê đức Anh, phụ tá Văn tiến Dũng, nơi đây đang có mặt Lê đức Thọ. Tức là ông Đại tướng đi thẳng với phe Bắc Việt. Ông Minh đi trên tư thế nào? Quân không có, quan cũng không, chánh phủ chưa có gì hết. Như vậy chỉ là đi đầu hàng Bắc Việt. Công việc nầy không cần đến một Đại tướng! Trao cho một em bé đánh giầy 10 tuổi cũng làm được.

Cái hướng mà ông Minh cần đi là hướng Củ Chi, nơi thượng tướng Trần văn Trà đang chờ... Chờ đến kiếp sau !

Những gì mà ông Minh hứa với chúng tôi đã như nước đổ lá khoai. Bao nhiêu kế hoạch, bao nhiêu công trình vận động, phút chốc ông Minh làm tiêu tan hết. Lại còn dối gạt các tướng lãnh yêu nước khác, gây ra sự chậm trể phản công giờ chót, bởi đa số đều tưởng ông Đại tướng có phép lạ, sáng chế được công thức ngưng bắn tại chỗ để phe quốc gia không bị thua trong nhục nhã.

Thâm ý của ông Minh là muốn đầu hàng, sau đó ngồi ăn, hưởng cho đến già.

(Lời dịch giả D.H.N.: Thật đúng như ông Mérillon đã nói, từ ngày 30/4/1975 cho đến ngày nay 1996, Dinh Hoa Lan của ông Minh không mất một chiếc đủa, không mất một cành hoa, một bụi cỏ nào. Khi ông rời Việt Nam để đi định cư ở Pháp với toàn bộ gia đình, ông được tự do mang theo bất cứ thứ gì ông muốn, từ những món đồ cổ đến những kỹ vật, thượng vàng hạ cám... cộng sản phải dùng mấy xe vận tải đưa các thùng tài sản của gia đình ông xuống bến tàu cho ông. Dinh Hoa Lan ở đường Testard, bất động sản riêng của ông được ông giao cho trung tá Khử giữ gìn và quản lý, đến giờ nầy không một tên cộng sản nào dám đụng đến. Trung tá Khử hiện là chủ một vườn trồng lan tại Thủ Đức, cuối thập niên 80 là tổng thơ ký của Hội Hoa Lan Việt Nam ).

Ngày 29/4/1975, 8.00 giờ tối, sau khi nhận lãnh chức Tổng Thống do cụ Trần văn Hương bàn giao lại, ông Minh điện thoại xin lỗi chúng tôi, bày tỏ sự hối tiếc đã không hợp tác được với chánh phủ Pháp. Cách duy nhất mà ông phải chọn là đầu hàng Bắc Việt mới mong cứu sống được thủ đô Sài Gòn.

Tôi lạnh lùng trả lời một câu duy nhất:

- "Thưa Đại tướng, chúng tôi cũng rất lấy làm tiếc. Giờ cuối cùng của chiến tranh Việt Nam cần có một người lãnh đạo cương quyết, dám dấn thân, nhưng chúng tôi lại đi chọn lầm một bại tướng."

Tôi cúp điện thoại ngay, và từ 10 năm qua tôi không hề và cũng không muốn liên lạc với ông ta nữa.

NGÀY 1 THÁNG 5

Lúc phi cơ xoay qua một độ nghiêng, lấy hướng qua Bangkok , tôi nhìn xuống Sài Gòn lần chót. Tự nhiên trong lòng tôi dâng lên một niềm ngậm ngùi thương tiếc tất cả những gì đang xảy ra dưới đất. Tôi như người bại trận, hay nói cách khác, tôi xin được làm bạn với người bại trận, một người bạn đã không chia xẽ mà còn bắt buộc Việt Nam Cộng Hòa phải gánh chịu hết tất cả ... trong những ngày sắp tới.

Việt Nam và tôi có rất nhiều kỹ niệm, có quá nhiều quan hệ mật thiết suốt đời không phai lạt. Sống ở Việt Nam lâu năm, tôi cảm thấy thương xứ sở nầy. Tội nghiệp cho họ, họ có thừa khả năng dựng nước, nhưng cái quyền làm chủ quê hương đã bị các cường quốc chuyền tay nhau định đoạt. Tôi xin lỗi người Việt Nam . Tôi đã làm hết sức mình nhưng không cứu vãn được nền hòa bình cho dân tộc Việt. Vĩnh biệt Sài Gòn, Sài Gòn vẫn hồn nhiên với những mạch sống dạt dào ơn nghĩa, một khi đã chọn bạn hữu thâm giao.

Năm 1979, Đại sứ Võ văn Sung có thư mời tôi trở lại thăm Sài Gòn. Tôi từ chối với lý do không quen với cái tên Hồ chí Minh. Sài Gòn đã mất, tôi trở lại đó thăm ai? Ở đời có khéo lắm cũng chỉ gạt được người ta lần thứ hai, làm sao lừa dối được người ta lần thứ ba? Người cộng sản giả bộ ngây thơ (ở một khía cạnh nào đó) nên tưởng nhân loại cũng đều ngây thơ như họ. Liên tục nói dối hàng bao nhiêu năm, tưởng như vậy quần chúng sẽ nhập tâm tin là thật. Họ lầm. Nói láo để tuyên truyền chỉ có lợi trong chốc lát, nhưng về lâu về dài thì chân lý của loài người sẽ đè bẹp họ. Ngày xưa Liên Xô đã xiết chặt sai khiến họ, dùng Việt Nam làm phương tiện đóng góp cho Nga. Họ có muốn thoát ly, có muốn nhờ Tây Phương tháo gở cho họ cũng không được nữa, vì đã từng phạm lỗi lớn là đã lường gạt Tây Phương..

Sau hết, chế độ Việt Nam Cộng Hòa thua, nhưng thật ra người Việt Nam chưa thua cộng sản. Trận chiến chưa chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Mỗi năm, vợ chồng chúng tôi đều đi xuống Lourdes để kính lễ Đức Mẹ Lộ Đức. Luôn luôn tôi nhắc nhở nhà tôi, chúng tôi cùng cầu nguyện cho người Việt Nam đạt được nền hòa bình theo sở nguyện của họ. Tôi tin rằng Đức Chúa Trời và Đức Mẹ không bỏ rơi dân tộc Việt Nam .

    Jean Marie MÉRILLON
    Cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam

Thứ Năm, 24 tháng 1, 2008

Cái Giá Phải Trả Cho Một Cảnh Sát Trung Thực Ở Trung Quốc




Anthony Kuhn/Hạt HEPU, Tỉnh GUANGXI (FEER)
Văn Hiền dịch (VNN)

Là một sĩ quan cảnh sát, Zhang Yaochun luôn cố gắng theo đuổi những lý tưởng của mình. Bà đã vạch trần sự mục nát của các cấp trên. Giờ thì bà đang phải lo ngại cho tính mạng của mình. Những điều bà phải trải qua đã nêu bật sự bất lương tràn ngập trong hàng ngũ công an Trung Quốc, bất chấp những nỗ lực giúp họ trở thành một lực lượng chuyên nghiệp hơn. "Mọi người thấy tôi đi bộ xuống phố như thể không có gì phải lo nghĩ cả. Nhưng mỗi tối tôi đều không dám nói với ai là mình sẽ đi đâu. Tôi phải liên tục chuyển chỗ ở, và tôi tự nhủ: 'Hôm nay mình vẫn còn sống. Nhưng ngày mai mình có còn sống hay không?'".

Cựu sĩ quan cảnh sát Zhang Yaochun vẫn đang trốn chạy những người đồng nghiệp cũ của mình từ năm 2000 đến nay. Nhưng bà luôn mang một niềm tin khi trò chuyện với phóng viên báo Kinh tế Viễn Đông (FEER) tại một nơi mà bà không muốn tiết lộ. Nói chuyện bằng tiếng Quan thoại với giọng mũi sắc nét của một người miền nam, người phụ nữ 39 tuổi này kể lại câu chuyện đã khiến bà đã trở thành một kẻ trốn chạy sự bất công như thế nào.

Zhang nhớ lại một buổi tối tháng 3/1996 tại tỉnh Guangxi nơi bà sinh ra. Bà vừa mới cùng một số người bạn sĩ quan hoàn tất việc hộ tống những nông dân vi phạm chính sách kế hoạch hóa gia đình của Trung Quốc đến một bệnh viện để buộc họ triệt sản. Các nhân viên an ninh đáng lẽ phải hỗ trợ họ trong nhiệm vụ này đã không có mặt. Vào khoảng 3 giờ sáng, các sĩ quan ghé lại ăn cháo ở một quán ăn trên Quốc lộ 325 ở ngoại ô thành phố biển Beihai.

Bỗng nhiên, bà kể lại, một người đàn ông chỉ mặc đồ lót xuất hiện trước các sĩ quan này. Ông ta nói mới bị cướp bởi một số người ngụy trang mang súng tiểu liên. Ông ta nhớ được số xe của bọn cướp, và cảnh sát đã lần theo chiếc xe này. Vài giờ sau, Zhang và các đồng nghiệp bắt được bọn cướp đang chia chác những thứ vừa cướp được trong buổi tối hôm đó: tiền bạc, đồng hồ và điện thoại di động. Bọn cướp chính là những nhân viên an ninh vắng mặt trong đêm đó. Và Zhang nhận ra xuất xứ của những khẩu tiểu liên: chúng thuộc đồn cảnh sát hạt Hepu.

Đó là vụ cướp mới nhất trong một loạt những vụ cướp của giết người bằng súng cảnh sát của hạt Hepu. Cuối cùng thì việc sử dụng vũ khí bất hợp pháp cũng đã đưa đến một cuộc điều tra toàn quốc của Đảng Cộng sản vào năm 1999. Sẵn sàng hợp tác với các nhà điều tra, Zhang đã viết một bản tường trình chi tiết những vụ buôn bán súng bất hợp pháp của cảnh sát và nhiều vụ lạm quyền khác. Vì dính líu đến sự rắc rối này, cấp trên của bà đã xem bà như một cảnh sát tồi tệ và đuổi bà ra khỏi ngành.

Một cựu quan chức của Đảng Cộng sản Beihai từng đọc bản tường trình của Zhang và tham gia cuộc điều tra nói: "Đáng lẽ người ta phải tận tình điều tra những gì bà ấy đã báo cáo, nhưng thay vì thế, bà ấy lại gặp nhiều khó khăn. Như thế là không đúng". "Bà ấy bị biến thành một kẻ tội phạm, và điều đó rất nghiêm trọng", ông nói thêm, "Với tấm gương của bà ấy, nhiều người sẽ không còn dám báo cáo những vấn đề như vậy nữa".

Đối diện với cơn giận dữ ngày càng tăng của công chúng trước sự mục nát của các cơ quan hành pháp Trung Quốc, chính phủ đã có nhiều nỗ lực đáng chú ý để quét sạch những nhân viên sĩ quan gian lận và bất tài. Tháng 7 năm ngoái, một báo cáo của Bộ trưởng cảnh sát Trung Quốc về những vấn đề trong lực lượng đã "dấy lên một hồi chuông báo động" ở những vị lãnh đạo cao cấp, kể cả Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, theo tin tức trên các phương tiện truyền thông nhà nước cho biết. Để phản hồi, chính phủ phát động một phong trào kéo dài 4 tháng, kết thúc vào tháng 11, trong đó gần 45.000 sĩ quan tham nhũng hay không đủ tư cách đã bị sa thải. Nhưng khi trường hợp của Zhang được biết đến, nhiều công dân hoặc cảnh sát đã phản ứng dữ dội.

Sau khi bị sa thải lần đầu, bà Zhang đã được phục chức trở lại, kế đó lại bị đuổi việc lần thứ hai, bị giam giữ hai lần, và hầu như trong suốt bốn năm qua, bà luôn phải trốn tránh những viên cảnh sát mà bà nghĩ rằng có thể bắt mình bất cứ lúc nào. Song điều đó không hề ảnh hưởng gì đến tinh thần trách nhiệm của bà, sự nhanh nhạy hoạt bát hay lòng trung thành của bà với chính phủ cả. Bà nói: "Tôi luôn tin vào Đảng Cộng sản".

Sau một thời gian làm giáo viên trung học, bà Zhang đã vượt qua một loạt các cuộc kiểm tra để gia nhập lực lượng cảnh sát vào năm 1995 tại hạt Hepu, vùng ngoại ô Beihai, một thành phố cảng nghiêng dốc bên bờ biển phía nam Trung Quốc. "Khi còn nhỏ, tôi thấy cảnh sát có rất nhiều quyền lực - những quyền lực thật sự có thể được dùng để giúp đỡ người dân", bà kể lại, "Tôi cũng thấy có những cảnh sát chỉ làm mọi thứ vì lợi ích riêng của mình, nhưng tôi biết tôi sẽ không trở thành loại cảnh sát đó. Tôi muốn phụng sự nhân dân".

Ban đầu Zhang phục vụ trong bộ phận phân phối vũ khí cho những đơn vị cảnh sát bảo vệ an ninh ở các ngân hàng hay các doanh nghiệp nhà nước. Sau đó, bà nói, bà nhận ra cấp trên của mình lạm dụng kho vũ khí cảnh sát để kiếm tiền hoặc cầu cạnh cá nhân - họ bán, cho mượn hoặc tặng súng ống cảnh sát cho những nhân vật thế lực ở địa phương, chẳng hạn như vợ chồng một nhà thầu xây dựng hay cha con ông chủ một nhà máy làm pháo. Bà bắt đầu lưu lại hồ sơ các vũ khí này và hồ sơ những người nhận.

Với quá nhiều súng đạn bị lạm dụng như vậy, "làm thế nào cảnh sát chúng ta có thể bảo vệ được bản thân mình, chứ đừng nói đến bảo vệ người dân", Zhang nói. Những khẩu súng bất hợp pháp đã để lại nhiều dấu tích lộn xộn: một nhân viên ngân hàng Hepu đã giết chết một người đàn ông trong một vụ xô xát tại quán ăn, và một tên mafia địa phương đã bắn một người trong một trận cãi cọ do say rượu, theo tin tức địa phương.

Mọi chuyện đến hồi căng thẳng vào tháng 12/1998. Trong một cuộc ẩu đả ngoài đường phố, Zhang Baoan, một quan chức địa phương của Đảng Cộng sản làm công tác hành pháp, đã bắn một sĩ quan cảnh sát bằng một khẩu súng lục của cảnh sát được cấp phát bất hợp pháp, theo tin tức truyền thông nhà nước. Vào thời gian đó, quan chức cảnh sát được phép mang súng. "Nếu chúng ta sai thì toàn bộ Guangxi đều sai", vị cựu quan chức Đảng ở Beihai mang khẩu súng lục Model 64 do quân đội cấp phát nói như vậy. Sau đó quy định đã được thắt chặt hơn: Các quan chức và cảnh sát làm việc văn phòng không được cấp súng.

Zhang Baoan bị kết án tù chung thân, trong khi ủy ban pháp luật và chính trị trung ương của Đảng Cộng sản phát động một chiến dịch toàn quốc thanh lọc những kẻ lạm quyền hành. Nhiều nhóm từ chính phủ trung ương đã đến Guangxi, tâm điểm của chiến dịch này.

Zhang Yaochun đã phớt lờ những lời cảnh cáo của thượng cấp, yêu cầu không hợp tác với các nhà điều tra, thay vì thế, bà đã chuyển cho họ một bản ghi chú về sự tham nhũng của cảnh sát hạt Hepu. Chỉ có bốn nhà điều tra đọc bản ghi chú này, và họ bảo đảm rằng bà Zhang sẽ được giấu tên khi cộng tác. Nhưng chỉ hai ngày sau, bà kể, nội dung bản ghi chép của bà đã bị tiết lộ. Zhang nói chồng bà, về phe với cảnh sát, bảo rằng đầu bà đã được treo giải, và một trong những cảnh sát có liên can trong báo cáo của bà đã đe dọa sẽ sắp xếp một "tai nạn giao thông" để sát hại bà. Sau đó Zhang ly hôn với chồng và chồng bà giành được quyền chăm sóc cô con gái của họ. Bà cho biết những người bạn đồng nghiệp thân tình trước đây đều quay lưng lại với bà.

Hè năm 1999, Zhang là một trong 21 sĩ quan cảnh sát bị sa thải. Cấp trên nhận xét bà có "thái độ làm việc không chu đáo" và không có mặt đúng giờ, theo một hồ sơ cảnh sát phác thảo để phản hồi sự than phiền của bà khi bị đối xử như thế. Một cuộc điều tra sau đó của chính quyền hạt đã chứng minh những lời phê bình này là vô căn cứ và bà Zhang được phục chức.

Năm 2000, Beihai sa thải 27 cảnh sát nữa vì nhiều lỗi lầm nặng hơn, kể cả tội buôn lậu. Một lần nữa bà Zhang lại bị đuổi việc. Cấp trên của bà khẳng định rằng bà không đủ khả năng vượt qua ba cuộc kiểm tra đánh giá hàng năm, nhưng Zhang nói không ai thông báo gì với bà về những cuộc kiểm tra này theo như quy định cả.

"Trong mắt những người dân Hepu, lý do căn bản cho những rắc rối của Zhang là vì bà đã phạm sai lầm với cảnh sát khi vạch trần những sai trái của họ", Yang Zaixin, một người bạn và là luật sư hạt Hepu nói, "Bà từ chối tham gia cùng họ trong những vụ tham nhũng. Bà đã làm mất mặt họ".

Tuy nhiên, Chen Shaoguo, Giám đốc văn phòng quản trị Cục giám sát hạt Hepu, đã bác bỏ những luận điệu của Zhang về việc bán súng cảnh sát. "Tôi có thể nói là, về căn bản, báo cáo của bà ấy không đáng tin cậy", ông nói. Ông cũng phủ nhận việc những điều đó đã dẫn đến việc bà bị sa thải. "Đó chỉ là sự bào chữa mà thôi... Bà ấy đã nghĩ ra tất cả, và chúng tôi đã chứng minh điều đó qua những cuộc điều tra lặp đi lặp lại", Chen nói.

Sau khi bị sa thải một lần nữa, Zhang vẫn giữ vững sự kháng nghị của mình. Khi chính quyền địa phương khước từ lời kêu gọi của bà phản đối việc bị sa thải một cách bất công, bà đã đến Bắc Kinh vào năm 2002 để phản đối với chính quyền trung ương, nhưng bà cho biết mình đã bị bỏ quên. Bà đã phải trốn tránh hơn một tá đồng nghiệp được gửi đến Bắc Kinh để giải bà về quê. Có một lần, bà kể, họ đã cố bắt giữ bà tại văn phòng đại diện chính quyền hạt Beihai ở Bắc Kinh. Zhang đã giả vờ tuân phục rồi lẻn ra ngoài, đánh nhau với một nữ cảnh sát khác và trốn thoát trên một chiếc xe buýt công cộng.

Chen cho biết các viên chức chính quyền cố gắng xoa dịu bà bằng cách đề nghị cho bà những công việc khác trong chính quyền hạt nhưng bà Zhang từ chối. Bà bị bắt giam hai lần, mỗi lần 15 ngày, vì việc đến các văn phòng chính quyền đã "quấy rối trật tự văn phòng chính quyền", theo ghi chép trong hồ sơ cảnh sát. Bà Zhang đã nhờ Yang làm nhân chứng cho sự giam giữ bất công của mình. Sau đó Yang đã phải ở 21 tháng trong một trại lao động vì bị kết tội gạ gẫm gái mại dâm.

Chắc chắn Zhang sẽ khó lòng hòa hợp được với nếp sống vô văn hóa của đồn cảnh sát hạt. Bà kể lại rằng 16 nam cảnh sát trong bộ phận của bà thường xuyên chửi thề, hút thuốc, uống rượu và cờ bạc. Khi bà cự tuyệt những lời tán tỉnh tình dục của họ, bà kể, họ đã phỉ báng bà trước những đồng nghiệp khác. Bà cho biết mình cũng phản đối những biện pháp tra tấn thường dùng với những người bị tình nghi - từ đánh đập đến kích điện - nhưng bà không báo cáo vì việc đó diễn ra ngoài bộ phận của mình. (Chính phủ Trung Quốc thường phủ nhận việc tra tấn của cảnh sát, dù những trường hợp như vậy vẫn hay xuất hiện trên các phương tiện truyền thông nhà nước.)

Nhiều đồng nghiệp của Zhang không được huấn luyện làm cảnh sát hay viên chức nhà nước. Một số người trở thành cảnh sát nhờ các mối quan hệ cá nhân; những người khác chỉ đơn giản là mua công việc bằng tiền. Theo một báo cáo nội bộ của cảnh sát, khoảng 200 trong số 600 cảnh sát hạt Hepu là không chính thức. Một phóng viên địa phương bình luận: "Số này bao gồm những công nhân của nhà máy làm pháo, những người giữ trẻ, thợ ống nước và đủ loại tầng lớp". Ông nói thêm là dù không có một cấp bậc cảnh sát chính thức nào nhưng vẫn có những người được thăng chức trưởng phòng hay trưởng trạm cảnh sát.

Trong số 600 học viên sĩ quan tốt nghiệp học viện cảnh sát Guangxi năm 1999, có 23 người quê ở Hepu. Trong một lá thư gởi đến Tạp chí Cảnh sát Nhân dân năm đó, 23 người này than phiền rằng không ai trong số họ có thể tìm được một công việc ở lực lượng cảnh sát hạt vì ở đây đã quá thừa nhân viên bởi những người không chính quy.

Sáu năm sau lời cảnh báo của Zhang, nhiều vấn đề mà bà báo cáo đã từ từ lộ rõ. Một cảnh sát được nêu tên trong báo cáo của bà bị kết án 12 năm tù vì đã thuê một băng cướp bắt cóc chồng cô tình nhân của mình (sau đó bản án được giảm xuống còn ba năm), theo các phương tiện truyền thông nhà nước cho biết. Một số cảnh sát bị bắn khi đang thi hành nhiệm vụ, và những vụ cướp trên Quốc lộ 325 vẫn lan tràn.

Ngày 9/4 năm nay, cảnh sát Hepu đã phát động một đợt vận động kéo dài ba tháng để ngăn chặn những vụ phạm tội có dùng súng. Chính quyền hạt, theo tin Nhật báo Beihai, đã đặt ra những mục tiêu trước mắt: giảm bớt 20% số vụ phạm tội có súng so với năm ngoái và giải quyết 80% số vụ còn lại trong ba tháng. Điều đó sẽ đòi hỏi một số việc cần làm: Theo một sĩ quan cảnh sát nội vụ Beihai, chỉ có 20% số vụ phạm tội được giải quyết trong quý một năm nay.

Trong khi đó, Zhang đang thảo kế hoạch tiếp tục phản kháng cho đến khi được minh oan. "Khi tôi ở Bắc Kinh, các quan chức bảo tôi rằng ông Hồ Cẩm Đào là một vị lãnh đạo tốt, và tôi luôn hy vọng chính sách của chính phủ sẽ thay đổi", bà nói, "Tôi luôn tin rằng mọi việc sẽ tốt đẹp hơn và chính niềm hy vọng đó đã giúp tôi vượt qua mọi khó khăn".

Thứ Tư, 23 tháng 1, 2008

Hồi ức Trường Sa và tân binh đặc biệt

(VietNamNet) - Trên chuyến tàu khởi hành từ quân cảng Cam Ranh ngày 6/1/2008 để chuyển quà Tết ra Trường Sa mang số hiệu HQ 936 có hai tài sản đặc biệt. Chúng tôi đã may mắn gặp và nghe họ kể về Trường Sa.

Hồi ức Trường Sa

Người đàn ông năm nay 41 tuổi, có nụ cười rất hiền và gương mặt hằn sâu vị biển, thường xuyên ngồi ghế trực chính trên boong tàu HQ 936, thuộc từng luồng lạch, từng dòng hải lưu, điều kiện tàu cập các đảo trong suốt dọc đường hành trình. Đó là Thượng úy Vũ Văn Nguyên, trưởng ngành hàng hải tàu HQ 936.

Tàu HQ 936 làm nhiệm vụ chuyển quà ra Trường Sa. Ảnh: Hà Trường

41 năm tuổi đời, 21 năm tuổi quân, anh Nguyên có tới 20 năm gắn bó với sóng gió biển đảo Trường Sa. 21 điểm đảo thuộc quần đảo Trường Sa hàng năm gặp đất liền, anh đều đã ghé qua. Nhưng trong câu chuyện anh kể khi có chút rảnh rỗi lúc tàu neo đậu, nhiều nhất là những chuyến hải hành dài hàng tháng trời, ký ức về những ngọn sóng cao hàng chục mét mỗi khi mùa mưa bão tới. Đặc biệt là chuyến hành quân nhớ đời từ vùng biển phía Nam ra với quần đảo Trường Sa tháng Ba năm 1988.

Năm 1988. Tháng Ba. Một ngày không thể quên của lực lượng Hải quân Nhân dân Việt Nam. Ngày 14/3/1988. Tàu anh Nguyên đang neo ở vùng biển Phú Quốc thì nhận được lệnh cấp tốc rời bờ, ghé qua TP.HCM nhận lương thực, tiếp tế rồi nhằm hướng Trường Sa thẳng tiến.

Chiếc tàu há mồm số hiệu B62 bò ì ạch trên biển chỉ được vài ba hải lý một giờ, phải dùng tới đầu kéo. Sau một tuần lênh đênh trên biển thì tới được vùng biển Trường Sa. Khi tàu ghé vào đảo Colin để tiếp tế cho đảo, vẫn còn thấy chiếc tàu anh hùng HQ 505 nằm lại ngay trên bãi cạn. Thân tàu bị pháo nước ngoài bắn xuyên qua, bốc khói đen ngòm. Trên tàu HQ 505 vẫn còn rất nhiều khoai tây và đủ loại lương thực, thực phẩm khác.

Ngày 14/3/1988 không thể quên đó, tàu HQ505 đang thực hiện chuyến hải hành bình thường, chuyên chở lương thực từ Bắc vào Nam thì nhận được lệnh ra gấp Trường Sa, vùng cụm đảo Sinh Tồn vì có tàu nước ngoài vi phạm chủ quyền trên đảo Colin. Câu chuyện diễn biến khá nhanh quanh chủ đề bảo vệ chủ quyền của đất nước. Rồi đột nhiên, pháo từ xa dội tới. Tàu HQ-505 khi đó bị bắn thủng thân, nước vào như trút, có thể chìm ngay bất cứ lúc nào. Không chần chừ, Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ ra lệnh lên máy dù tàu đang neo, nổ hết tốc lực để neo tầu lên đảo nhằm khẳng định mảnh đất Colin giữa Trường Sa là của Việt Nam!

Cả đoàn thủy thủ chia ra chiến đấu giữ đảo. Xuồng khẩn cấp được hạ xuống. Cuối trận đánh, xuồng đưa 10 chiến sỹ cùng 1 liệt sỹ về được tới đảo Sinh Tồn Lớn.

Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam thời kỳ 1975 - 2007 còn ghi lại: Ngày 14/3/88, tại khu vực này hai tàu nước ngoài đã ngang nhiên xâm phạm và bắn chìm tàu HQ 605 và HQ 505 của ta, khiến 64 chiến sĩ mất tích đồng thời đưa quân lên chiếm đóng đảo Gạc Ma.

Từ tháng Ba năm 1988 đó, anh Nguyên ở lại, gắn bó với Trường Sa. Tàu ra tới Sinh Tồn, neo lại trực đảo 2 tháng rưỡi, sau đó chuyển qua 3 cụm đảo khác. Sinh Tồn, Núi Le, Đá Đông, các anh có 6 tháng trời ròng rã lênh đênh trên biển Trường Sa. Thiếu nước, hứng nước mưa. Gạo thiếu, chỉ có 7 sỹ quan và chiến sỹ trên tàu nên ăn cũng chẳng hết bao nhiêu.

Đó là những năm tháng mà những "đảo di động", đảo chìm, đảo nổi đã dệt nên những câu chuyện về Trường Sa anh hùng!

Trong ngày trở về đất liền, thuyền trưởng Vũ Huy Lễ được phong anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, thăng vượt cấp lên Thượng tá, đồng thời trở thành Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 955 cho đến ngày ông về hưu.

Sau sự kiện Colin, theo thời gian và qua lời kể của các nhân chứng, lần lượt nhiều người đã được nhận danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Ngày 14/3/1988 đó, Hải quân Nhân dân Việt Nam mất ba tàu: HQ-505, HQ-604, HQ-605 cùng 74 chiến sỹ. Tàu HQ-505 mãi về sau bị chìm tại khu vực đảo Đá Lớn khi đang trên đường kéo về đất liền. Còn hai tàu HQ-604, HQ-605 đã mãi mãi nằm lại dưới lòng biển sâu khu vực giữa đảo Colin và đảo Len Đao.

Tân binh đặc biệt

Tròn 20 năm sau. Tháng 1/2008, trên chuyến hành trình HQ-936 ra Trường Sa có một hạ sỹ cấp bậc tiểu đội trưởng, dáng người nhỏ nhắn, nụ cười rất hiền và đặc biệt siêng năng có tên Nguyễn Mậu Trường, con trai liệt sỹ Nguyễn Mậu Phong, người đã hi sinh trong trận chiến ngày 14/3/1988.

Liệt sỹ Nguyễn Mậu Phong, quê ở xã Duy Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Khi hi sinh, anh Phong mới 28 tuổi và đang mang quân hàm đại úy.

Trong ký ức Trường, hình ảnh về người cha anh hùng Nguyễn Mậu Phong chỉ nhạt nhòa qua những tấm hình chụp vội trong bộ quân phục hải quân. Hai chiếc hòm gỗ được quân đội chuyển lại cho gia đình gồm tư trang và rất nhiều cuốn sổ tay ghi chép, trong đó có một bức thư dày gửi ba mẹ con.

Khi người cha hi sinh giữa trùng khơi Trường Sa, Trường mới chỉ được hai tuổi. Mẹ sinh em Xuân khi có thai vừa được 7 tháng. Đó là hai giọt máu anh hùng Nguyễn Mậu Phong để lại và nay đang có mặt trong đội hình những người lính hải quân. Nguyễn Mậu Trường, sinh năm 1986, đang trên đường ra nhận nhiệm vụ tại đảo Nam Yết. Nguyễn Mậu Xuân, sinh năm 1988, đang là sinh viên năm thứ 4 Học viện Hải quân Khánh Hòa.

Cánh thư chép vội gửi về đất liền. Ảnh: Hà Trường.

Trong biển đêm ngày 16/1, khu vực đảo chìm Đá Thị, Trường Sa vằng vặc sáng. Cách không xa là cụm đảo Sinh Tồn. Trường kể rằng, đã mong được đi qua đảo Colin để thắp cho người cha nén hương tưởng vọng. Nhưng điều đó đã không được như dự kiến. Còn tôi nói với em rằng, chuyến hành trình đó đã có người làm thay. Hàng năm, quanh cụm đảo Sinh Tồn, khi các tàu đi ngang qua đảo Colin đều có lễ thắp hương, thả hoa xuống biển tưởng niệm những chiến sỹ đã nằm lại để bảo vệ chủ quyền vùng biển đảo này.

Trong ký ức một thời thơ dại, Trường kể về một vùng quê Hiền Lộc nép bên dòng Kiến Giang, Quảng Bình thơ mộng. Có một gian nhà nhỏ, nơi người mẹ đã nuôi hai đứa con trai lớn lên. Học tại Huế, rồi về Quảng Bình làm thuê cho một cửa hàng điện tử để đỡ đần mẹ. Sau đó, em vào Vũng Tàu làm thợ sơn thuê. Ăn hết tết 2007 ở Quảng Bình, Trường vào Cam Ranh để tiếp tục ra với Trường Sa. Mẹ em cũng vừa dựng được căn nhà nhỏ. Trước đấy, ba mẹ con sống đạm bạc, dựa vào nghề chăn nuôi và tiền trợ cấp liệt sỹ của cha.

Trường kể, đi làm thợ sơn ở Vũng Tàu, em ki cóp được 10 triệu đồng mang về hết cho mẹ. Ra đảo chuyến này về, em mong sẽ tặng được một món quà lớn hơn cho mẹ. Người mẹ của Trường, chị Trần Thị Liễu giờ đã bước qua tuổi 45, hẳn cũng ấm lòng hơn khi thấy con đã trưởng thành trong quân ngũ. Chắc chị sẽ an dạ khi chứng kiến cảnh trên boong tàu HQ936 đang neo giữa Biển Đông, gần đảo Sơn Ca, Nguyễn Mậu Trường đang lúi húi viết thư gửi mẹ.

Trong đôi mắt vời vợi hướng ra phía biển, Trường luôn hỏi đảo Nam Yết còn cách Sơn Ca bao xa.

  • Hà Trường (từ đảo Sơn Ca, Trường Sa)

Tin mới nhất của Thông Tấn Xã Vàng Anh:


* Diễn Biến Mới Nhất Chung Quanh Vụ Nhà Đất Thái Hà - Tòa Khâm Sứ
* Hãy Chửi Những Gì Bạn Đã Hiểu Rõ
* Phỏng Vấn blogger Điếu Cày và anhbasg... BT 19/1
* CA Việt Nam Bảo Kê Cho Xã Hội Đen?
* Đã Thấy Xác Tàu VN Bị "Tàu Lạ" Tông Chìm
* Trẻ Em 9-10 Tuổi Đã Đi Làm Phu Vác Đá
* Người Không Đi Bằng Hai Chân
* Việt Nam Bảo Đảm Sẽ Cải Thiện NHÂN QUYỀN

Thứ Ba, 22 tháng 1, 2008

Thuyết minh về bức thư công khai của tôi

Tam Dương dịch
Gần đây tôi đã nối lại điện thoại bị tôi tự cắt gần một tháng, điện thoại di động cũng thường xuyên mở, và không ngừng có tin đến, đặc biệt là phóng viên: “Hiện nay ông an toàn không? Có bị bên ngoài quấy rối không?”

Tôi nói: “Tôi rất an toàn. Vừa không bị quấy rối, càng không bị cường bạo.”

“Ồ? Bên ngoài truyền tin internet của ông bị ngăn chặn…”

Tôi nói: “Chẳng qua là bị virus một tí. Công tác, đời sống của tôi hiện nay, tất cả đều rất bình thường!”

Các phóng viên vô cùng thông minh: “Ông phát biểu bức thư công khai gửi những người lãnh đạo nhà nước Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo, theo tình hình trước đây thì…, liệu có thể nói như thế này: hiện nay sau Đại hội 17, không khí, môi trường chính trị Trung Quốc biến thành tốt rồi không?”

Tôi nói: “Có thể nói như vậy!”

Phóng viên: “Bên ngoài rất quan tâm đến sự an toàn của ông. Có người nói: an toàn của ông có thể là máy đo chiều gió của chính trị Trung Quốc đấy!”

Trả lời: “Được, thật ra dân chúng trong nước quan tâm đến sự an toàn của tôi. Tôi giả định như thế này: nếu tôi biến mất một cách không ai rõ, thì chúng ta trở thành xã hội đen; nếu như tôi bị bắt giữ như Lâm Chiêu, Trương Chí Tân [1] thì chúng ta lại quay về những năm tháng đen tối của Đại Cách mạng Văn hoá; nếu như đưa tôi ra toà án? Thì nên nói là chúng ta là một xã hội có khuyết điểm nhưng vẫn còn tốt, nhưng điều này không có khả năng! Thế nhưng nếu tôi rất an toàn, muốn nói thì nói, người nào muốn phê bình tôi thì phê, thế thì xã hội Trung Quốc tràn đầy hy vọng!”

Phóng viên: “Ông có thể nói một chút: hai vị lãnh đạo Hồ, Ôn đối với bức thư công khai của ông…?”

Trả lời: “Gần đây tôi đã từ chối phỏng vấn của phóng viên hãng Reuters, đài Tiếng nói Hoa Kỳ… Còn có rất nhiều phỏng vấn của giới truyền thông Trung văn, trả lời của tôi là nhất trí: “Xin lỗi, tôi không muốn nhận phỏng vấn về các vấn đề chính trị. Bởi vì tôi không phải là một nhà chính trị, càng không phải là một nhà tuyên truyền. Bức thư công khai đó của tôi chỉ là với tư cách một công dân, trình bầy những quan điểm của mình với lãnh đạo tối cao và xã hội, nói xong là xong, không cần phải lặp lại. Với tư cách là một nhà doanh nghiệp, tôi còn có những việc của mình phải làm!”

Tôi biết câu trả lời của mình đối với các phóng viên là rất bất lịch sự, làm cho họ rất thất vọng, thế nhưng không có cách nào khác, bởi vì nhữg vấn đề mà họ nêu ra quá nhiều, tôi không có cách gì đối phó được. Vì vậy trước sự truy hỏi của đông đảo phóng viên tôi lại cắt máy điện thoại và điện thoại di động. Hôm nay nhân dịp tôi phát biểu thư công khai tròn một tháng, tôi nhặt ra mấy vấn đề quan trọng coi như câu trả lời thống nhất vậy!”

Hỏi: Bức thư công khai của ông, hiện nay hai vị lãnh đạo Hồ, Ôn có biểu thị gì không?

Trả lời: Không thể nhanh như vậy được, những cái tôi nêu đều là vấn đề trọng đại, người lãnh đạo và tầng lớp lãnh đạo cần có thời gian suy nghĩ. Nhưng tôi tin là: Hai vị lãnh tụ Hồ, Ôn đều đã nhận được giáo dục truyền thống Trung Quốc rất tốt, họ rất gần dân, có thể thể nghiệm và quan sát được dân tình dân ý. Hai ngôi sao mới Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường trong Thường vụ Bộ Chính trị, là những tinh anh chính trị đã trải qua lễ rửa tội trong phong trào dân chủ Trung Quốc trong những năm 80 của thế kỷ trước, họ hiểu rằng chỉ có thiết lập được công huân vì dân tộc Trung Hoa thì họ mới giành được sự ủng hộ của trăm họ Trung Quốc, giành được sự đồng thuận của những bạn bè chính trị cùng thời đại.

Hỏi: Vậy thì ông giải thích như thế nào về việc bức thư công khai của ông bị phong toả toàn bộ trên mạng?

Trả lời: Đó là tập quán của Đảng Cộng sản. Cán bộ ẳang Cộng sản cơ sở và cảnh sát mạng trên chỉ cần nhìn thấy bất cứ cái gì không có lợi cho Đảng Cộng sản là họ sẽ ngăn chặn ngay theo quán tính. Lực xung kích của bức thư công khai của tôi tương đối lớn, với tư cách là suy nghĩ của tầng lớp cao, bức thư này không thể ngay lập tức tiến vào xã hội, tôi nghĩ cũng có thể hiểu được. Vì thế tôi giữ thái độ im lặng cũng là phải.

Hỏi: Trước mắt không ít học giả phái tả đã phê phán ông công khai trên mạng! Đó chẳng phải là chế tạo dư luận ư? Ngoại giới bình luận đó là triệu chứng báo trước sẽ bắt ông.

Trả lời: Không nghiêm trọng thế đâu. Bởi vì bọn họ rốt cuộc cũng chỉ là số ít người. Trong một tháng từ khi tôi phát biểu thư công khai đến nay, tôi đã nhận được mấy ngàn tin, cũng có thể là hàng vạn tin, bởi vì tôi cắt điện thoại, điện thoại di động cũng thường xuyên không mở, phản đối tôi chỉ có 6, 7 cái nhiều nhất cũng không quá 7, 8 cái, trong đó có 2 tin đe doạ, một cái thông qua bưu điện, một cái thông qua nhắn tin di động, tôi đều nhớ cả. Thế còn ở trên internet, tôi đã xem: những bài viết và tờ thiếp phản đối tôi không quá 5%, nhiều nhất cũng không quá 8%! Hơn nữa còn lặp lại, vừa đọc là biết ngay, cái đó là do đặc vụ mạng làm!

Vì thế từ trên mạng đã bị ngăn chặn cũng có thể thấy: Trung Quốc đã không phải là Trung Quốc 30 năm trước, 40 năm trước, càng không phải là 50 năm trước! 50 năm trước chỉ một bài xã luận “Đó là vì sao?” của Nhân Dân nhật báo là đã có thể dấy lên phong trào chống phái hữu trong toàn xã hội; 40 năm trước chỉ một bài báo chữ lớn “Nổ súng vào Bộ Tư lệnh” đã có thể làm cho Trung Quốc loạn xị bát nháo, tất cả đều bị phê cho đổ, phê cho thối; 30 năm trước tình hình “Phê Đặng, phản kích làn gió lật án hữu khuynh” khi mới bắt đầu đã không giống thế, mặc dù vẫn có thể dấy lên phong trào quần chúng có tính toàn quốc, nhưng rồi trên quảng trường Thiên An Môn cũng có một phong trào quần chúng giống như vậy khiến tình hình Trung Quốc phát sinh thay đổi; 20 năm trước sự kiện Thiên An Môn “4-6”, nếu như không dùng xe tăng và uy tín của Đặng Tiểu Bình, có thể tưởng tượng là kết quả gì rồi.

Vì vậy, phần tử trí thức phái tả hiện nay phê phán tôi, không đại biểu cho ý chí của “đảng mẹ”. Tôi nghĩ nhiều nhất là “đảng mẹ” muốn thử đo dân ý một chút mà thôi. Hơn nữa tôi nghĩ, “đảng mẹ” nên vỗ vỗ đầu số người này: “Hãy ít nói một chút!” bởi vì bọn họ đã cô lập “đảng mẹ”, đặt “đảng mẹ” vào mặt đối lập với nhân dân!

Hỏi: Giới truyền thông hải ngoại thấy phái tả phê phán ông không có ý mới, chẳng lẽ ông không trả lời à?

Trả lời: Từ góc độ dân chủ, dùng tập quán và phương pháp dân chủ: chúng ta nên tôn trọng nhân cách của đối phương, không dập xoá sửa chữa, không tiến hành công kích nhân thân. Quan điểm của tôi đã được nói rõ trong bức thư công khai, không cần lặp lại, càng không có thời gian và tinh lực để bàn luận. Thực tiễn là tiêu chuẩn đề kiểm nghiệm chân lý, hãy để cho thực tiễn kiểm chứng kết quả, vì chúng ta đưa ra kết luận.

Thế nhưng có người đem bức thư công khai của tôi hô hoán lên rằng Trung Quốc đã xuất hiện Yeltsin và kêu gọi tiến hành cách mạng mầu lam, nói là “lệnh động viên động loạn”. Tôi không thể không phản bác điều này!

Yeltsin thì có gì đáng sợ? Tôi đề cập tới Yeltsin là chạm đến thần kinh của một số người nào đó chăng? Thế nhưng nguyên Chủ tịch nhà nước của chúng ta, tiên sinh Giang Trạch Dân đã từng ôm Yeltsin chặt đến vậy, hôn thân thiết đến thế, sao thần kinh của những vị này lại không bật lên? Ô hô! Yeltsin khi là Tổng thống nước Nga được chính thức đánh giá cực cao, chúng ta không nói. Trong dân gian, ông ta đã là: đại danh từ của những người làm công tác chính trị tán thành dân chủ đầu lưỡi đồng thời hành động thực tiễn dân chủ. Các học giả phái tả của chúng ta đã sợ hãi một vị làm công tác chính trị như vậy đó.

Hiến pháp nước ta đã chỉ rõ “công dân được tự do hội họp, kết xã, tuần hành, thị uy”. Tuy nhiên suy tính tới tình hình đất nước chúng ta, tôi không có tư cách và quyền lực cấm mọi người tuần hành và thị uy, thế nhưng khi tôi đề xướng không nên tuần hành và thị uy, thậm chí suy tính tới tình hình đất nước Trung Quốc, nếu có lý do và nói ra yêu cầu cải cách chính trị và dùng mồm nói ra, đều có khả năng vì thế mà bị vu cáo là phản cách mạng, tôi sẽ dứt khoát đề xướng dùng ngôn ngữ người câm, múa múa tay làm thủ thế, có lý do và nói ra yêu cầu sẽ mặc bộ quần áo mầu lam, chít miếng vải lam, như thế là “bạo động” à?

Như thế nào mới không là “bạo động” vậy? Ngay đến con lợn còn biết kêu! Tôi không chủ trương người kêu, chỉ vỗ vỗ tay mà không được ư?

Trời đất ơi, hỡi các phần tư trí thức phái tả của chúng tôi, trí thức của ngài để đi đâu? Ngài muốn áp chế đồng bào của ngài đến bước nào đây? Chẳng lẽ ngài muốn đánh một gậy để đưa dân tộc Trung Hoa từ xã hội phong kiến quay trở về xã hội nô lệ chăng?

Đưa những lôgích và ngôn luận của phần tử trí thức phái tả chúng ta tới Liên hiệp quốc, hoặc tới bất kỳ trường hợp quốc tế nào, với tư cách là đồng bào, tôi đỏ mặt!

Hỏi: Thế ông sẽ phản bác ngôn luận của bọn họ vậy!

Trả lời: Không cần thiết. Nhưng tôi phải dẫn dắt chút ít cho một số người tuổi trẻ nào đó, họ cho rằng: dân chủ Trung Quốc còn chưa thành thục, chỉ có dưới sự lãnh đạo của chính quyền chuyên chế mới có thể làm được chút gì đó, dân tộc Trung Hoa mới có thể trỗi dậy! Bọn họ nhầm rồi!

Tôi nhớ là trong Đại Cách mạng Văn hoá, tôi và mười mấy đồng học trốn đi chơi Trường Thành. Chân giẫm lên Trường Thành, lưng tựa vào bức tường bắn tên, tôi chợt nẩy ra ý lạ, phát biểu một hồi hùng luận: “Này, các bạn nghe đây! Trường Thành dưới chân chúng ta rất vĩ đại, các bạn đã nghĩ tới chưa? Nếu như không có cô gái Mạnh Khương khóc Trường Thành, nếu như không có sự hy sinh của mấy chục vạn bộ xương trắng xây dựng nên, thì liệu có thể để lại Trường Thành vĩ đại này không? Vĩ đại có nghĩa là phải có hy sinh! Stalin hy sinh hàng triệu Bolshevik, mới có thể làm cho Liên Xô vĩ đại tồn tại được trong sự bao vây của chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, Đại Cách mạng Văn hoá của chúng ta muốn làm cho toàn cầu trở thành một mầu đỏ, làm sao lại không có hy sinh? Chúng ta hãy hy sinh một cách tự giác, dũng cảm vì những thành tựu vĩ đại của lãnh tụ vĩ đại nhé! Trong khi thành tựu sứ mạng lịch sử vĩ đại hãy thành tựu và thực hiện chính chúng ta nhé!” Trong bầu không khí của thời đại này, bài diễn thuyết tràn đầy tính kích thích của tôi được đưa ra, phía dưới là một rừng người reo hò và vỗ tay. Bây giờ nghĩ lại bài diễn thuyết đó sao mà hoang đường vô lý.

Lúc đó, tôi hoang tưởng Đại Cách mạng Văn hoá kết thúc, lãnh tụ vĩ đại sẽ cử hoặc cho tôi đi Đông Nam Á hoặc châu Phi, tôi sẽ trở thành Che Guevara của nơi đó! Để rèn luyện và thử thách ý chí cách mạng của mình tôi đã tuyệt thực ba ngày ba đêm, không uống nước, sau đó nhiễm bệnh dạ dầy và mang theo cho đến tận hôm nay.

Sự thực sau này chứng minh: cái gọi là cách mạng thế giới là thần thoại chỉ là một cuộc đấu tranh quyền lực mà chúng ta tham dự mà thôi!

Rất nhiều người trẻ tuổi mê tín rằng: chỉ có quyền lực, tập quyền mới có thể thực hiện vĩ đại, và trong quá trình đó thực hiện được sự nghiệp, giá trị, thậm chí sự vĩ đại của mình.

Trong xã hội hiện đại, ngoài việc bảo vệ tổ quốc còn cần sự tập quyền nào đó. Mà với tư cách là chế độ xã hội tập quyền thì sẽ tạo thành tai hoạ đối với quốc gia, thậm chí đối với toàn thế giới.

Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, cho dù Đức và Nhật Bản phát triển kinh tế rất nhanh rất mạnh nhưng làm sao chúng có thể so sánh được với cái đẹp của nước Đức và Nhật Bản hiện đại! Kinh tế của Đức và Nhật hiện đại có thể phát triển bền vững, có thể phát huy tài trí của toàn thể nhân dân và tạo phúc cho kinh tế đời sau. Nhưng kinh tế hai nước này trước chiến tranh thế giới lần thứ hai là mất cân bằng, tai hoạ mà hai quốc gia tập quyền gây cho thế giới là chưa từng có!

Chủ nghĩa Marx với tư cách là tư tưởng của phong trào công nhân kích tiến, đến thời kỳ sau của thế kỷ thứ 19, đã phát sinh thay đổi. Chỉ là do Lenin trong một lần đảo chính ngẫu nhiên đã thúc đẩy tư tưởng kích tiến đó tiến vào cao trào. Loại chính quyền dùng vũ lực mà đoạt được này, tất nhiên là một quốc gia của chủ nghĩa tập quyền. Quốc gia chủ nghĩa tập quyền này ở vào tình trạng con người là trung khu của quyền lực, đoạt lấy quyền lực tối cao là không có trình tự, sau khi giành được quyền lực tối cao thì hành vi là vô độ. Ví dụ như Stalin, ông ta không hề có cống hiến gì trong cuộc cách mạng tháng hai của nhân dân Nga lật đổ Sa hoàng, chỉ bằng cuộc đảo chính tháng Mười mà bước vào vòng quyền lực tầng lớp cao, sau khi Lenin chết, ông ta ra sức xử lý đồng đảng. Sau khi giành được quyền lực tối cao, những khuyết điểm và sai lầm của ông ta đã mang tới và tạo thành những tổn thất trọng đại cho cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của Liên Xô! Điều này chỉ cần đọc sách giáo khoa lịch sử đương đại Nga là biết.

Thế còn Trung Quốc? Vương triều các đời Trung Quốc đều có một quá trình từ ngồi trên lưng ngựa đoạt quyền đến xuống ngựa trị lý. Nhà Tần và nhà Tuỳ không hoàn thành tốt sự chuyển biến này, đã bại vong. Nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống, nhà Minh, nhà Thanh đã hoàn thành tương đối tốt sự chuyển biến này, và tồn tại được. Nguyên nhân của lịch sử là những triều đại này đã chuyển biến hoà bình, và cũng chỉ có thể là sự chuyển biến của xã hội phong kiến từ chiến loạn sang ổn định.

Thế còn Trung Quốc đương đại thì sao? Sự chuyển biến hoà bình của Trung Quốc đương đại do hoàn cảnh thế giới và quá trình lịch sử của Trung Quốc - cơ sở lịch sử của cách mạng Tân Hợi và bài học kinh nghiệm lật đổ lặp đi lặp lại sau đó - đã quyết định Trung Quốc tiến vào hoà bình, tất nhiên là chính trị dân chủ! Đài Loan là một chứng minh.

Tai hoạ của Mao Trạch Đông với Trung Quốc không chỉ là Đại Cách mạng Văn hoá. Xuất phát từ đấu tranh quyền lực chính trị ông ta đã đề xuất lý luận tiếp tục làm cách mạng. Theo lý luận này, ông ta tự nêu gương mình là cách mạng nhất, chỉ trích Khrushchev là chủ nghĩa xét lại phản bội cách mạng, định tính Lưu (Thiếu Kỳ), Đặng (Tiểu Bình) là nhân vật kiểu Khrushchev ngủ bên cạnh mình. Thông qua phong trào tạo thần (sùng bái cá nhân cao độ) chưa từng có trong lịch sử là Đại Cách mạng Văn hoá, người Trung Quốc ghi nhớ trong lòng: người lãnh đạo thế hệ thứ ba, thứ tư Trung Quốc phải “mãi mãi không đổi mầu”.

Như thế là, xuất phát từ đòi hỏi của đấu tranh quyền lực trước mắt của mình, Mao Trạch Đông đã dùng mầu sắc hình thái ý thức chế tạo ra một khẩn cô chú (lời chú mà Đường tăng dùng để khống chế Tôn Ngộ Không), buộc chặt vào những người lãnh đạo cộng sản các thế hệ sau ông ta, khiến họ không có cách gì hoàn thành việc từ trên ngựa đến xuống ngựa, chuyển biến từ những năm tháng chiến tranh sang thời kỳ hoà bình. Khiến cho xã hội Trung Quốc không thể tiến lên, không thể tiến vào xã hội chính trị dân chủ!

Bắt đầu từ Đặng Tiểu Bình là không còn dũng khí ấy nữa, ông này chỉ có thể từ trong khẩn cô chú đề xuất lý luận“mò” (dò dẫm). Kết quả “mò” của ông ta là mò ra sự kiện “4-6” (tức sự kiện Thiên An Môn 1989), điều động xe tăng, tự dội nước bẩn vào mình; Giang Trạch Dân, người kế thừa sau Đặng Tiểu Bình cũng tiếp tục “mò”, kết quả của “mò” là ra một Pháp Luân Công (một tôn giáo không được chính quyền Trung Quốc công nhận). Tự mang lại tai hoạ chính trị cho mình.

Chẳng lẽ Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, ngài còn muốn “mò” tiếp hay sao? Liệu ngài lại “mò” ra kết quả gì?

Thực tiễn chứng minh: những giáo điều này đã làm cho Đảng Cộng sản Trung Quốc biến thành tập đoàn lợi ích từ trên mình ngựa đoạt thiên hạ, đến xuống ngựa chiếm thiên hạ, rồi làm bá (chủ) thiên hạ. Biến thành một tập đoàn khép kín không thể thích ứng với tình hình, không nhìn rõ thời thế, không đại biểu cho nhân dân cả nước, không có trách nhiệm với toàn dân tộc! Những giáo điều này, nhân dân toàn quốc đều không hứng thú, ngay những tinh anh trong Đảng cũng ngủ gật.

Đảng Cộng sản Trung Quốc không làm cải cách dân chủ là đang chờ chết, thúc đẩy cải cách dân chủ là tìm ra con đường sống trên con đường gian khổ, đó là con đường sống của dân tộc vĩ đại chúng ta, là con đường sống của 70 triệu đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Tại nơi kết thúc bài viết này, tôi muốn nói thêm mấy kiến nghị thực tế:

Rõ ràng là xã hội Trung Quốc đòi hỏi biến đổi, đòi hỏi cải cách chính trị quán triệt đến chỗ thực, nhưng đột xuất vấn đề này như thế nào? Ổn định và thúc đẩy có hiệu quả cải cách chính trị như thế nào? Cá nhân tôi đề xuất kiến nghị thành lập đặc khu thí nghiệm cải cách chính trị:
  1. Nhằm thẳng vào tình hình đất nước cụ thể của Trung Quốc, nên rút bài học kinh nghiệm thành công của cải cách kinh tế, xây dựng mấy đặc khu cải cách chính trị, tìm ra kinh nghiệm, bồi dưỡng nhân tài, ngưng tụ đồng thuận xã hội. Trên thực tế Trung Quốc đã có đặc khu cải cách chính trị rất tốt - Khu hành chính đặc biệt Hồng Công. Trước mắt mặc dù Hồng Công có đủ các loại các kiểu tuần hành thị uy, trong Quốc hội cũng rất náo nhiệt, nhưng lợi ích các giới có thể thông qua từng bước hoàn thiện chính thể dân chủ, mà được cân bằng và thoả mãn. Hiện nay nói chung cục diện chính trị Hồng Công là ổn định, kinh tế phồn vinh. Tham khảo kinh nghiệm Hồng Công, làm mấy đặc khu cải cách chính trị ở đại lục không phải là vấn đề khó.

  2. Vì ổn định cục diện chính trị, với tư cách là nguyên thủ quốc gia Chủ tịch Hồ không nên đứng ở tuyến đầu cải cách chính trị, có thể giới thiệu một nhân vật có ảnh hưởng trong Đảng mà lại có ma lực cải cách đứng đầu, đóng vai trò lãnh tụ cải cách chính trị, tổ thành một ban lãnh đạo cải cách có nhân sĩ trong, ngoài Đảng tham gia, dưới tiên đề ổn định đại cục thúc đẩy cái cách chính trị. Khi cải cách xuất hiện vấn đề lớn, Chủ tịch Hồ có thể đứng ra xoay chuyển cục diện bị động; còn thành công, Chủ tịch Hồ có thể động viên toàn Đảng và nhân dân cả nước tiến theo.

  3. Trong quá trình thí nghiệm cải cách chính trị, thông qua tuyên truyền “Nguy cơ ý thức” và sức ép cải cách to lớn, có thể thúc đẩy thành công sự chuyển hình chỉnh thể của Đảng, cải tạo Đảng thành lực lượng chính trị đoàn kết, ổn định, thích ứng với nền chính trị dân chủ hiện đại, dẫn 70 triệu đảng viên vào con đường chính trị bằng phẳng, sáng sủa, mở ra thịnh thế ngàn năm cho dân tộc Trung Quốc.
Tôi tin rằng, dưới sự dẫn dắt của những nhà cải cách có trí tuệ của thế hệ mới của Đảng Cộng sản Trung Quốc, con đường cải cách chính trị mà nguy cơ ở cả bốn phía sẽ biến thành chiếc cầu bật có lực cho sự trỗi dậy thực sự của dân tộc Trung Hoa, toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc nhất định có được cuộc sống mới, trong thời đại chính trị dân chủ vĩ đại, bằng vào công trạng lịch sử thúc đẩy cải cách chính trị, thông qua bầu cử phổ thông giành được quyền lợi chính trị hợp pháp.

Một lần nữa xin chúc phúc dân tộc vĩ đại chúng ta có thể thuận lợi thông qua cuộc lữ hành cải cách chính trị dân chủ có tính trả nợ này, để cùng sáng tạo ra những thành tích vĩ đại mà cháu con đời sau ca ngợi và đón ngày mai tốt đẹp.

Ngày 22 tháng 11 năm 2007


Bản tiếng Việt © 2008 talawas




[1]Hai thanh niên bị giết hại tàn ác trong Cách mạng Văn hoá, trong đó Trương Chí Tân rất nổi tiếng.

(nguồn: Talawas.org)

Trẻ em VN 9-10 tuổi đã đi làm bốc vác đá

Hòa trong tiếng động long óc, bụi dày như sương sa và sự rình rập của đá lở, khoảng hơn 100 em nhỏ dưới 9-10 tuổi hăng say bốc vác đá.
Chưa đến 10 tuổi cũng thành phu vác đá Các em đang làm công việc nặng nhọc quá sức



Hai lần tôi đến lèn đá này đều bị ho sặc sụa vì bụi và càng làm cho nỗi thương cảm các em nhỏ cần mẫn làm công việc nặng nhọc quá sức đối với cả người lớn, tìm kiếm bát cơm, manh áo...

Tuổi thơ hòa bụi đá


Buổi chiều, tôi hướng theo tiếng ì ầm mà tìm đến công trường khai thác đá ở mỏ đá Cù Hải (xã Quỳnh Văn, Quỳnh Lưu). Gió mùa đông bắc bạt từ trên đỉnh dãy núi đá cao cỡ trên trăm mét xuống vừa lạnh vừa cuốn theo bụi đá bốc lên. Thế mà hàng chục em nhỏ nhễ nhại mồ hôi trong áo mỏng hì hục bê đá lèn.

Công trường khai thác đá này chạy dài gần 1 km, cứ khoảng 50 m lại có một điểm tập kết đá để từ đây bốc lên xe vận chuyển đi. Gần 100% lực lượng tham gia bốc đá là các em nhỏ. Chỉ một nhóm vài người đàn ông làm công việc khoan đá, đu trên dây thừng cheo leo trên vách để khoan.
Nhìn những thớ đá chênh vênh trên đỉnh chực rơi xuống bất cứ lúc nào, nghĩ đến những vụ lở núi đá kinh hoàng tại Bản Vẽ (Tương Dương, Nghệ An); hay Thạch Bàn (Hà Tĩnh), Kim Bảng (Hà Nam) và gần đây nhất là vụ tai nạn thương tâm tại mỏ đá Lèn Nậy (Hoàng Mai, Quỳnh Lưu) hàng chục người chết và bị thương…, tôi thấy lạnh xương sống.

Những con người bé nhỏ kia đang đánh đu với số phận. Những lỗ khoan được nhồi thuốc nổ vào để đánh đá. Dưới chân lèn đá là con đường gồ ghề, các em nhỏ tụ tập chỗ này để đợi xe vào “ăn đá”. Mỗi khi có chiếc xe tải nào chạy vào, các em nhanh nhảu cầm rổ tre chạy theo, cuốn trong bụi.

Thường thì cứ 1 - 3 người lớn (toàn là phụ nữ) và 15 - 17 em nhỏ tập trung thành một nhóm bốc đá cho một xe tải. Nhìn Phạm Thị Tình, tôi không tin được em đã 14 tuổi. Vẹo lưng hất rổ đá lên vai và bước đi, khi đến chiếc xe tải, em rướn toàn thân hất đá vào thùng xe.

Nhưng rồi Tình cũng không còn gây sự ngạc nhiên cho tôi nữa bởi càng tiếp xúc tôi nhận thấy em nào cũng với thân hình còi cọc, bé tẹo như mới lên 9 lên 10. Một người phụ nữ trong tốp cho biết: “Đã có thâm niên bốn năm đi bốc đá nên hầu hết lũ trẻ này đều “sắt”, còi như rứa cả”.

Nguyễn Văn Mạnh – tài xế chiếc xe tải mà các em đang bốc đá, anh chép miệng nói với tôi: “Tội nghiệp lắm nhưng cũng chỉ vì miếng cơm manh áo. Hồi trước chưa có lệnh cấm xe công nông thì các cháu đỡ vất vả hơn chút vì thành xe thấp. Bây chừ toàn loại xe này, thành nó cao, sàn xe đã ngang bằng hoặc cao gấp rưỡi đầu bọn trẻ”.

Sau khi được đánh mìn, nhiều khối đá tảng lớn lăn xuống công trường. Những người thợ dùng búa chẻ ra thành nhiều loại đá. Sản phẩm cuối cùng là đá hộc, đá dăm hoặc đá xay để phục vụ xây dựng. Và công việc với sản phẩm cuối cùng này do chính các em nhỏ đảm nhận.

Xen với những chiếc xe tải nhỏ và vừa là xe tải lớn có trọng tải cỡ hàng chục tấn vào “ăn đá”. Trần Văn Bình (13 tuổi) nói: “Xe loại chi bọn em cũng bốc tuốt. Cũng may là dạo ni các xe thường hay ăn loại đá năm bảy (loại có kích cỡ khoảng 5 đến 7 cm) nên cũng đỡ nặng nhọc hơn đôi chút”.

Bốc xong một xe đá, nếu ở khu vực cạnh bên đã có người bốc, tốp “cửu vạn” nhí này lại ùa nhau ra chân lèn. Các em nữ (chiếm khoảng 2/3 số các em đi bốc đá), đứa trò chuyện, đứa ngồi bần thần ngoảnh về phía đầu đường đợi tiếng động cơ hoặc đám bụi bốc lên, đó là dấu hiệu có xe ô tô vào ăn đá. Các em nam tụ tập đùa nghịch nhau thật hồn nhiên.

Đám khác lại ngồi quây đánh bài. Tôi hỏi một em nhỏ nhất trong tốp: “Ở đây có ai bé nhỏ hơn em không?”. Em bẽn lẽn xoa tay lên mái đầu bạc phếch của bụi đá: “Có nhiều em học lớp ba lớp bốn cũng đi làm như cháu nhưng vào buổi sáng…”.

Tìm sách, áo nơi công trường

Nỗi mệt nhọc dường như tan biến sau khi được trả 1.500 đồng (9 cents)



Sáng sớm hôm sau tôi trở lại lèn đá này. Sương mù còn dày đặc, nông dân chưa ra đồng nhưng bước chân của các em nhỏ đã sải đến công trường.

Các chủ xe tải muốn thêm chuyến, các chủ khai thác muốn tăng lượng đá bán, và các em nhỏ cũng đi sớm về muộn để hòa theo guồng làm việc.
Hàng chục em nhỏ đổ về điểm bốc đá, ở đó có những chiếc xe tải chờ sẵn. Trong tiếng động vọng ra từ những chiếc máy khoan đá, một em gái giới thiệu tên Phương (10 tuổi) rướn người bê rổ đá cao hơn đầu mới đổ đá được vào thùng xe.

Bê rổ đá bên phải, đầu ngả sang trái, phần giữa thân người oằn về bên phải, rồi tôi nghe tiếng “hự” khi em đạt độ gắng sức nhất để rổ đá vượt qua đầu chạm thành xe. Nhiều em trong những áo mỏng, quần xắn cao để lộ những đôi chân gầy đen nhẻm, xù xì.

Cũng có nhiều em chân đi dép lê mòn, vá víu; quần loang lổ màu trắng vì bụi đá quện mồ hôi. Có em cẩn thận bịt khăn ở mặt để giảm bụi, có em không khăn và chẳng mũ nón. Nhưng trên cơ thể mỗi em đều dính quện màu bột đá.

Một hình ảnh khiến cảm xúc của tôi nặng hơn khi nhìn khuôn mặt nào cũng trắng xoá những hàng lông mi; trắng tóc, trắng lỗ mũi và những hàm răng sữa màu nâu của sự cực khổ.

Một chiếc xe tải nữa chất đầy đá lại nhả khói bò ra khỏi mỏ đá, để lại 30.000 đồng (2$) tiền công bốc vác. Các em nhỏ xúm lại chia nhau, số tiền chia cho 20 lao động nhí. Cầm trên tay 1 ngàn rưỡi đồng (9cents), như đàn chim, các em lại tíu tít chờ chiếc xe khác để tiếp tục công việc.
Phạm Thị L. học sinh lớp 3 cho biết: “Bố mẹ vào Nam làm ăn cả, cháu ở với ông bà. Đi được mấy tháng rồi nhưng chưa thấy bố mẹ gửi tiền về, nhà không có tiền cháu ra đây đi bốc vác để giúp ông bà”.

Em Nguyễn Thị Hiền, học sinh lớp 4 cho biết: “Ông bà thương lắm và không muốn cho cháu đi làm nhưng cháu chưa có áo ấm mặc mùa đông này nên phải gắng…”.

Với 1 ngàn rưỡi đồng sau khi bốc một xe ô tô đá, hơn 100 em nhỏ nơi này phải xoay xở không biết bao khoản chi tiêu, trong đó sách vở, tấm áo và miếng ăn luôn thiếu thốn thường trực.

Khai thác đá thủ công theo kiểu “hàm ếch”, phía trên đầu các em là vô số khối đá nặng hàng trăm tấn có thể đổ xuống bất cứ lúc nào. “Sợ thì rất sợ nhưng không có cách nào khác. Thi thoảng vẫn có đá rơi làm bị thương vài người” - Các em cho biết.

Trao đổi với thầy giáo Hoàng Nguyên Vẹn - Hiệu trưởng trường Tiểu học Quỳnh Văn B, thầy cho biết: “Trừ một số rất ít phụ huynh không quan tâm đến con cái, còn lại bố mẹ các em phải tha phương làm ăn. Vùng dân cư sống gần lèn đá hầu hết được di dân từ nơi khác đến đã từ khá lâu. Đất canh tác ít, bạc màu nên họ rất nghèo…”.

Tôi lại không cầm lòng được khi nghe thầy Vẹn kể: “Nhiều hôm làm lễ chào cờ, tôi đi xuống phía học sinh đang đứng xếp hàng, không ít em rét run trong manh áo mỏng. Hỏi thì các em cứ cúi mặt không trả lời. Tìm hiểu ra mới biết do hoàn cảnh không có điều kiện mua áo ấm, và đang gắng lên núi lèn bốc đá…”.

Bụi mịt mù như đuổi tôi ra khỏi mỏ đá, một tốp em gái nhỏ ngồi trên chiếc xe tải chất đầy đá, còi inh ỏi vượt qua tôi. Các em mờ trong bụi đá cuộn trắng đặc trên đoạn đường tôi về.

Đầu tôi nặng trĩu với ước mong làm sao các em sớm quên hẳn mỏ đá này…

Đào Nguyên Thuận

(nguồn: chưa rõ, copy từ luyenchuong.net)